Các phương pháp sau được dùng để điều trị ung thư tế bào máu được sử dụng phổ biến hiện nay:
Hóa trị liệu là phương
pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Tùy thuộc vào loại ung
thư tế bào máu, bệnh nhân có thể được điều trị bằng một loại thuốc đơn
độc hoặc phối hợp hai hay nhiều loại thuốc.
Một số thuốc chống ung thư
dùng đường uống. Còn lại hầu hết các thuốc được tiêm truyền tĩnh mạch.
Thông thường thuốc được tiêm truyền vào tĩnh mạch qua một ống thông đặt
vào một tĩnh mạch lớn (tĩnh mạch cảnh trong hoặc tĩnh mạch dưới đòn).
Nhờ đó tránh cho bệnh nhân khỏi bị đau đớn và các tổn thương da khi phải
tiêm nhiều lần.
Thuốc chống ung thư đi
vào cơ thể qua đường tiêm hoặc uống sẽ theo mạch máu tới hầu khắp cơ thể
để diệt các tế bào ung thư. Tuy nhiên, thuốc thường không tiếp cận được
các tế bào ung thư trong hệ thần kinh trung ương do bị hàng rào máu-não
ngăn lại. Hàng rào bảo vệ này được cấu tạo từ một mạng lưới mạch máu và
có nhiệm vụ lọc dòng máu đến não và tủy sống. Để tiếp cận được những tế
bào ung thư trong hệ thần kinh trung ương, thuốc chống ung thư được
tiêm trực tiếp vào dịch não tủy. Có hai cách để đưa thuốc vào dinh não
tủy. Một số bệnh nhân được đưa thuốc vào tủy sống (phần thắt lưng). Một
số khác, đặc biệt là trẻ em, được đặt một loại ống thông đặc biệt, gọi
là ống dự trữ Ommaya, đưa vào dưới da đầu để tạo một con đường vào dịch
não tủy. Người ta tiêm thuốc chống ung thư vào ống dự trữ này thay cho
tiêm vào tủy sống và như vậy có thể thực hiện việc điều trị một cách dễ
dàng hơn và bệnh nhân cảm thấy thoải mái hơn.
Hóa chất được sử dụng
thành từng đợt: một đợt điều trị, sau đó là một đợt nghỉ hồi sức tiếp
đến một đợt điều trị khác... Trong một số trường hợp, bệnh nhân được
điều trị bằng hóa chất ngoại trú ở bệnh viện, tại phòng khám của bác sĩ
hoặc tại nhà. Tuy nhiên, tùy thuộc vào loại thuốc điều trị và tình trạng
sức khỏe chung, bệnh nhân có thể phải nằm viện trong một thời gian
ngắn.
Liệu pháp chiếu xạ được
kết hợp với hóa trị liệu cho một số loại bệnh ung thư tế bào máu. Xạ trị sử
dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chúng
phát triển. Phóng xạ có thể được chiếu từ một máy lớn.
Xạ trị để điều trị bệnh
bạch cầu có thể được tiến hành theo hai cách. Đối với một số bệnh nhân,
bác sĩ có thể chiếu xạ cho một vùng cụ thể trên cơ thể nơi tập trung tế
bào ung thư máu, như lách hoặc tinh hoàn. Một số bệnh nhân khác được
chiếu xạ toàn thân. Chiếu xạ toàn thân thường được thực hiện trước khi
ghép tủy xương.
Ghép tủy xương cũng
được chỉ định cho một số bệnh nhân. Tủy xương sản xuất ra tế bào ung thư
máu của người bệnh bị phá hủy bằng thuốc và phóng xạ liều cao, sau đó
được thay thế bằng tủy xương lành. Tủy xương lành có thể là do một người
khác cho hoặc có thể là lấy từ chính bệnh nhân. Tủy xương sản xuất ra
tế bào ung thư máu của người bệnh bị phá hủy bằng thuốc và phóng xạ liều
cao, sau đó được thay thế bằng tủy xương lành. Tủy xương lành có thể là
do một người khác cho hoặc có thể là lấy từ chính bệnh nhân và được cất
giữ, bảo quản trước khi bị phá hủy. Nếu sử dụng chính tủy xương của
người bệnh thì lúc đầu cần phải xử lý nó bên ngoài cơ thể để loại bỏ tế
bào ung thư. Bệnh nhân được ghép tủy xương thường phải nằm viện trong
vài tuần. Bệnh nhân cần được bảo vệ cẩn thận tránh nhiễm khuẩn cho đến
khi tủy xương ghép có thể sản xuất đủ lượng bạch cầu.
Liệu pháp sinh học là
phương pháp sử dụng các chất ảnh hưởng tới đáp ứng của hệ thống miễn
dịch lên ung thư. Interferon là một dạng của liệu pháp miễn dịch để
chống lại một số loại ung thư tế bào máu. Rất khó hạn chế được tác dụng
của điều trị chỉ lên các tế bào ung thư. Do điều trị còn phá hủy các mô
và tế bào lành nên nó cũng gây ra các tác dụng phụ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét