1. Ung thư tinh hoàn là gì?
Ung thư tinh hoàn
là một căn bệnh trong đó các tế bào trở thành ác tinh ở một hoặc cả hai
bên tinh hoàn.Tinh hoàn là một trong số các tuyến sinh dục nam có nhiệm
vụ sản xuất và chứa tinh dịch, đồng thời cũng là nơi sản xuất chính của
các hoóc-môn nam. Các hoóc-môn này kiểm soát sự phát triển của các cơ
quan sinh sản và các đặc tinh nam. Tinh hoàn nằm trong bìu ở dưới dương
vật.Ung thư tinh hoàn có thể phân thành hai loại chính: u tinh và không
phải u tình, u tinh chiếm khoảng 30% các trường hợp ung thư tinh hoàn.
Ung thư tinh hoàn không phải u tinh là một nhóm các loại ung thư trong
đó có ung thư biểu mô màng đệm, ung thư biểu mô dạng bào thai, u quái và
u túi noãn. Ung thư tinh hoàn có thể phối hợp cả hai loại u này. Bệnh ung thư tinh hoàn là loại bệnh ung thư phổ biến nhất ở nam giới trẻ ở độ tuổi 15 - 35. Bệnh thường gặp ở nam giới da trắng hơn nam giới da đen.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư tinh hoàn là gì?
Người ta chưa biết nguyên nhân gây ung thư tinh hoàn. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy có một số yếu tố có
thể làm tăng nguy cơ mác bệnh ở nam giới. Tinh hoàn lạc chỗ (tinh hoàn
ẩn): Thông thường, tinh hoàn hạ xuống bìu trước khi trẻ sinh. Nam giới
có tinh hoàn không hạ xuống bìu có nguy cơ bị ung thư tinh hoàn cao hơn,
ngay cả khi đã được phẫu thuật để kéo tinh hoàn xuống bìu. Phát triển
tỉnh hoàn không bình thường: Nam giới có tinh hoàn phát triển không bình
thường cũng bị tăng nguy cơ ung thư. Hội chứng Klinefelter: Nam giới có
hội chứng Klinefelter (một rối loạn nhiễm sẳc thể giới tinh có đặc điểm
là nồng độ hoóc-môn nam thấp, vô sinh, vú to và tinh hoàn nhỏ) có nguy
cơ ung thư tinh hoàn cao hơn. Tiền sử bị ung thư tinh hoàn: Nam giới
trước đó đã bị ung thư ở một bên tinh hoàn có nguy cơ bị ung thư tinh
hoàn còn lại cao hơn.
3. Ung thư tinh hoàn được phát hiện như thế nào? Triệu chứng của ung thư tinh hoàn là gì?
Hầu hết các trường hợp ung thư tinh hoàn
là do bệnh nhân tự phát hiện. Bên cạnh đó, bác sĩ thường kiểm tra tinh
hoàn khi khám sức khỏe định kỳ. Giữa các lần khám sức khỏe định kỳ, nếu
thấy bất kỳ một điều gì bất thường ở tinh hoàn thì cần đến khám bác sĩ.
Khi ung thư tinh hoàn được phát hiện sớm thì việc điều trị ít xâm lấn
hơn và ít gây ra tác dụng phụ hơn.
Nên đến khám bác sĩ nếu thấy có các triệu chứng dưới đây:
- Một khối u không đau hoặc sưng tinh hoàn;
- Tinh hoàn to lên hoặc thay đổi so với bình thường;
- Cảm giác nặng ở bìu;
- Đau âm i ở bụng dưới hoặc vùng bẹn;
- Đột ngột có tràn dịch ở bìu;
- Đau hoặc khó chịu ở tinh hoàn hoặc ở bìu.
Các triệu chứng này có thể do ung thư hoặc do các tình trạng bệnh lý khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ khám để xác định nguyên nhân gây ra các triệu chứng đó.
- Một khối u không đau hoặc sưng tinh hoàn;
- Tinh hoàn to lên hoặc thay đổi so với bình thường;
- Cảm giác nặng ở bìu;
- Đau âm i ở bụng dưới hoặc vùng bẹn;
- Đột ngột có tràn dịch ở bìu;
- Đau hoặc khó chịu ở tinh hoàn hoặc ở bìu.
Các triệu chứng này có thể do ung thư hoặc do các tình trạng bệnh lý khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ khám để xác định nguyên nhân gây ra các triệu chứng đó.
4. Ung thư tinh hoàn được chẩn đoán như thế nào?
Để
tìm nguyên nhân của triệu chứng, bác sĩ phải đánh giá tình trạng sức
khỏe chung của người bệnh. Bác sĩ cũng phải khám và chỉ định một số xét
nghiệm thăm dò. Nếu nghi bệnh nhân bị ung thư, bác sĩ có thể chỉ định
sinh thiết khi phẫu thuật cắt tinh hoàn.
Các xét nghiệm máu được thực hiện để đo
nồng độ các chất chỉ điểm khối u là các chất thường có nồng độ cao hơn
bình thường khi có ung thư. Các chất chỉ điểm khối u như
alpha-fetoprotein (AFP), chất hướng sinh dục màng đệm người (HCG) và
lactat dehydrogenase (LDH) có thể gìúp phát hiện những khối u quá nhỏ
không thể phát hiện được trên lâm sàng hoặc chẩn đoán hình ảnh.
Siêu âm là một xét nghiệm chẩn đoán sử
dụng sóng âm tần số cao đập vào các mô và các cơ quan nội tạng. Sóng âm
dội lại tạo nên hình ảnh siêu âm. Siêu âm bìu có thể thấy được khối u và
đo được kích thước u trong tinh hoàn. Siêu âm cũng giúp loại trừ các
bệnh khác ở tinh hoàn như sưng nề do nhiễm khuẩn. Sinh thiết. Xét nghiệm
vi thể mô tinh hoàn là cách chắc chắn duy nhất để xác định có ung thư
hay không. Đối với hầu hết các trường hợp nghi ngờ, người ta lấy đi toàn
bộ tinh hoàn bị tổn thường qua đường rạch ở bẹn. Thủ thuật này được gọi
là cắt tinh hoàn đường bẹn.
Trong một số trường hợp hiếm gặp (ví dụ,
khi người nam giới chỉ có một tinh hoàn), bác sĩ phẫu thuật tiến hành
sinh thiết qua đường bẹn, lấy một mẫu mô ở tinh hoàn qua một vết rạch ở
bẹn và tiếp tục cắt tinh hoàn nếu bác sĩ giải phẫu bệnh tìm thấy tế bào
ung thư. (Bác sĩ phẫu thuật không mở bìu để lấy mô, vì nếu có ung thư
thì thủ thuật này có thể làm bệnh lan đi)
Nếu có ung thư tinh hoàn, cần tiếp tục tiến hành các xét nghiệm để xác định ung thư đã lan chưa. Xác định giai đoạn bệnh giúp bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù hợp.
Nếu có ung thư tinh hoàn, cần tiếp tục tiến hành các xét nghiệm để xác định ung thư đã lan chưa. Xác định giai đoạn bệnh giúp bác sĩ lập kế hoạch điều trị phù hợp.
5. Ung thư tinh hoàn được điều trị như thế nào? Tác dụng phụ của điều trị là gì?
Hầu hết các trường hợp ung thư tinh hoàn
đều có thể chữa khỏi bằng phẫu thuật, chiếu xạ và/hoặc hóa chất. Tác
dụng phụ tùy thuộc vào biện pháp điều trị và có thể khác nhau đối với
mỗi bệnh nhân khác nhau. U tinh và ung thư tinh hoàn không phải u tinh
phát triển và lan đi theo cách khác nhau, mỗi loại ung thư cần có phương
pháp điều trị riêng. Việc lựa chọn phương pháp điều trị còn phụ thuộc
vào giai đoạn của ung thư, tuổi và tình trạng sức khỏe chung của bệnh
nhân và các yếu tố khác. Bệnh nhân thường được một nhóm bác sĩ chuyên
khoa điều trị, trong đó có bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ ung thư nội khoa và
bác sĩ tia xạ ung thư.
Phẫu thuật cắt tinh hoàn qua đường bẹn
là một phẫu thuật triệt để. Bệnh nhân có thể lo lắng là mất tinh hoàn sẽ
ảnh hưởng đến khả năng quan hệ tình dục của họ hoặc gây vô sinh. Tuy
nhiên, một nam giới còn một bên tinh hoàn bình thường vẫn có thể có khả
năng cương và sản xuất tinh dịch bình thường. Do đó, phẫu thuật cát một
bên tinh hoàn không làm bệnh nhân bị liệt dương và hiếm khi ảnh hưởng
đến khả năng sinh con. Bệnh nhân cũng có thể cấy tình hoàn nhân tạo vào
trong bìu. Vật cấy có trọng lượng tương đương và giúp bệnh nhân có cảm
giác bình thường. Một số hạch nằm sâu trong ổ bụng cũng có thể được vét
bỏ. Phẫu thuật này không ảnh hưởng đến khả năng cương hoặc đạt cực
khoái, nhưng có thể gây vô sinh vì ảnh hưởng đến sự phóng tinh. Bệnh
nhân có thể muốn trao đổi với bác sĩ về khả năng vét hạch bảng kỹ thuật
phẫu thuật bảo tồn dây thần kinh đặc biệt gìúp bảo vệ khả năng phóng
tinh bình thường.
Chiếu xạ sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư
và làm co nhỏ khối u. Chiếu xạ là một phương pháp điều trị tại chỗ và
chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư trong vùng được điều trị. Nguồn tia
được phát ra từ một máy ở ngoài cơ thể (chiếu xạ ngoài) và thường nhằm
vào các hạch trong ổ bụng, u tinh thường rất nhạy với tia xạ. Ung thư
tinh hoàn không phải u tinh ít nhậy với tia xạ nên bệnh nhân có loại ung
thư này thường không được điều trị bằng chiếu xạ. Chiếu xạ ảnh hưởng
tới cả tế bào thường và tế bào ung thư. Tác dụng phụ của chiếu xạ chủ
yếu phụ thuộc vào liều điều trị. Tác dụng phụ thường gặp gồm có mệt mỏi,
thay đổi ngoài da vùng chiếu tia, mất cảm giác ngon miệng và ỉa lỏng.
Chiếu xạ can thiệp vào quá trình sản xuất tình dịch, nhưng hầu hết bệnh
nhân khôi phục được khả năng sinh con trong một vài tháng. Hóa chất là
dùng thuốc tiêu diệt tế bào ung trên toàn bộ cơ thể. Hóa chất được dùng
bổ trợ để tiêu diệt tế bào ung thư có thể còn lưu lại trong cơ thể sau
khi phẫu thuật. Hóa chất có thể là biện pháp điều trị ngay từ ban đâu
nếu ung thư ở giai đoạn muộn, có nghĩa là khi ung thư đã lan ra ngoài
tinh hoàn. Hầu hết các thuốc điều trị ung thư đều được tiêm vào tĩnh
mạch. Hóa chất là liệu pháp điều trị toàn thân, thuốc đi qua đường máu
và tác dụng lên cả tế bào bình thường và cả tế bào ung thư trong cơ thể.
Tác dụng phụ chủ yếu phụ thuộc vào loại thuốc và liều dùng. Các tác
dụng phụ thường gặp là buồn nôn, rụng tóc, mệt mỏi, ỉa lỏng, nôn, sốt,
rét run, ho/khó thở, đau miệng, ban ngoài da. Các tác dụng thường gặp
khác gồm chóng mặt, tê bì, mất phản xạ hoặc nặng tai.
Một số thuốc điều trị ung thư ảnh hưởng
đến quá trình sản xuất tinh dịch. Một số bệnh nhân bị giảm lượng tinh
dịch vĩnh viễn, nhưng nhiều bệnh nhân hồi phục được khả năng sinh
con. Bệnh nhân bị ung thư tinh hoàn cần thảo luận với
bác sỹ những vấn đề liên quan đến chức năng tình dục và sinh đẻ. Nếu
việc điều trị bệnh có thể dẫn đến hậu quả vô sinh, bệnh nhân có thể tìm
hiểu về việc lưu giữ tinh trùng để có thể có con về sau.
6. Có cân khám theo dõi không? Khám theo dõi gồm những gì?
Khám theo dõi định kỳ có vai trò cực kỳ
quan trọng đối với bệnh nhân ung thư tinh hoàn đã được điều trị. Giống
như tất cả các loại ung thư, ung thư tinh hoàn
có thể tái phát. Bệnh nhân ung thư tinh hoàn cần đến khám bác sĩ định
kỳ và cần thông báo ngay các triệu chứng bất thường. Các xét nghiệm theo
dõi có thể khác nhau tùy thuộc vào tuýp và giai đoạn ung thư tinh hoàn.
Thông thường, bệnh nhân được bác sĩ kiểm tra thường xuyên và làm các
xét nghiệm máu định kỳ để đo nồng độ các chất chỉ điểm khối u. Bệnh nhân
còn được chụp X-quang và chụp cắt lớp vi tinh định kỳ. Bệnh nhân bị ung
thư một bên tinh hoàn có nguy cơ phát triển ung thư ở tinh hoàn còn lại
cao. Những bệnh nhân này cũng bị tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư
máu và một số loại ung thư khác. Việc theo dõi định kỳ giúp tìm nguyên
nhân các bất thường về sức khỏe và phát hiện sớm ung thư tái phát để
điều trị ngay.
7. Hiện có thử nghiệm lâm sàng nào cho bệnh nhân ung thư tinh hoàn không?
Có. Tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng
là một lựa chọn điều quan trọng cho nhiều bệnh nhân ung thư tinh hoàn.
Để hoàn thiện được các phương thức điều trị mới hiệu quả hơn và cách áp
dụng các biện pháp điều trị hiện có tốt hơn, Viện nghiên cứu Ung thư
Quốc gia Hoa kỳ đang tài trợ cho các thử nghiệm lâm sàng ở nhiều bệnh
viện và trung tâm trên cả nước. Thử nghiệm lâm sàng là một bước quan
trọng trong việc tìm kiếm các phương thức điều trị mới. Trước khi đưa ra
khuyến cáo sử dụng bất kỳ một biện pháp điều trị mới nào, các bác sĩ
phải tiến hành thử nghiệm lâm sàng để đánh giá về tinh an toàn và hiệu
quả của biện pháp đó đối với người bệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét