Điều trị ung thư buồng trứng
bổ sung sau phẫu thuật sẽ được xác định bởi giai đoạn của bệnh, mức độ
của bệnh và loại ung thư. Đối với bệnh giai đoạn rất sớm và các loại
không xâm lấn, việc điều trị tiếp theo có thể không cần thiết. Đối với
các loại ung thư xâm lấn và tiến triển nặng hơn, hóa trị là lựa chọn
điều trị tốt nhất.
1. Điều trị ung thư buồng trứng
Việc điều trị ung thư buồng trứng tùy
thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm diễn biến bệnh và sức khỏe chung của
bệnh nhân. Bệnh nhân thường được điều trị bởi một nhóm các chuyên gia.
Nhóm này có thể bao gồm một bác sĩ phụ khoa, một bác sĩ ung thư phụ
khoa, một bác sĩ ung thư nội khoa và/hoặc một bác sĩ tia xạ. Nhiều
phương pháp khác nhau được kết hợp trong điều trị ung thư buồng trứng.
Phẫu thuật là phương
pháp điều trị ban đầu thường được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân được
chẩn đoán ung thư buồng trứng. Buồng trứng, vòi dẫn trứng, tử cung và
cổ tử cung thường được cắt bỏ. Phẫu thuật này được gọi là phẫu thuật cắt
tử cung cùng với buồng trứng-vòi dẫn trứng hai bên. Thông thường, bác
sĩ phẫu thuật còn cắt bỏ mạc nối và hạch trong ổ bụng.
Phân giai đoạn trong khi phẫu thuật (để
phát hiện xem ung thư đã lan chưa) thường liên quan tới việc vét hạch,
lấy mẫu mô ở cơ hoành và các cơ quan khác trong ổ bụng và dịch cổ
trướng. Nếu ung thư đã lan, bác sĩ thường cô' gắng cắt bỏ hết tế bào ung
thư trong một quá trình gọi là phẫu thuật cắt bỏ tối đa khối u. Phẫu
thuật cắt bỏ tối đa khối u làm giảm lượng tế bào ung thư phải điều trị
sau này bằng hóa chất hoặc tia phóng xạ.
Hóa trị liệu là dùng
thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Có thể áp dụng hóa trị liệu để tiêu
diệt các tế bào ung thư còn sót lại trong cơ thể sau khi phẫu thuật, để
kiểm soát sự tăng trưởng của khối u hoặc làm giảm nhẹ triệu chứng của
bệnh.
Hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư được tiêm vào tĩnh mạch. Thuốc có thể tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc qua catheter, một ống mảnh. Đặt ống thông vào một tĩnh mạch lớn và lưu lại tại chỗ trong thời gian cần thiết. Một số loại thuốc điều trị ung thư ở dạng viên uống. Dù những loại thuốc này được tiêm vào tĩnh mạch hay uống cũng đều đi vào mạch máu và tuần hoàn khắp cơ thể.
Hầu hết các loại thuốc điều trị ung thư được tiêm vào tĩnh mạch. Thuốc có thể tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc qua catheter, một ống mảnh. Đặt ống thông vào một tĩnh mạch lớn và lưu lại tại chỗ trong thời gian cần thiết. Một số loại thuốc điều trị ung thư ở dạng viên uống. Dù những loại thuốc này được tiêm vào tĩnh mạch hay uống cũng đều đi vào mạch máu và tuần hoàn khắp cơ thể.
Một cách khác để thực hiện hóa trị liệu
là đưa thuốc trực tiếp vào ổ bụng qua một ống thông. Bằng phương pháp
này, được gọi là hóa trị liệu trong phúc mạc, hầu hết các thuốc được giữ
lại trong ổ bụng.
Sau khi hóa trị liệu kết thúc, có thể
tiến hành phẫu thuật xét nghiệm lần hai để quan sát ổ bụng trực tiếp.
Bác sĩ phẫu thuật có thể lấy dịch và mẫu mô để xem thuốc điều trị ung
thư có tác dụng không.
Tia xạ trị liệu, còn
được gọi là liệu pháp phóng xạ, là phương pháp sử dụng tia có năng lượng
cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia xạ trị liệu chi ảnh hưởng tới tế
bào ở vùng chiếu xạ. Tia phóng xạ có thể xuất phát từ một máy (phóng xạ
ngoài). Một số bệnh nhân được điều trị bâng tia phóng xạ trong màng bụng
trong đó dung dịch phóng xạ được đưa trực tiếp vào ổ bụng qua một ống
thông.
Thử nghiệm lâm sàng để đánh giá các
phương pháp điều trị ung thư mới là một lựa chọn điều trị quan trọng cho
nhiều bệnh nhân ung thư buồng trứng. Trong một số nghiên cứu tất cả
bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp mới. Trong những nghiên cứu
khác bác sĩ so sánh các phương pháp điều trị khác nhau bằng cách áp dụng
phương pháp điều trị mới khả quan cho một nhóm bệnh nhân và phương pháp
điều trị thông thường (phương pháp chuẩn) cho một nhóm bệnh nhân khác.
Qua những nghiên cứu này bác sĩ tìm ra phương pháp điều trị ung thư mới
hiệu quả hơn.
Các tác dụng phụ có thể gặp do điều trị:Các
tác dụng phụ do điều trị ung thư phụ thuộc vào phương pháp điều trị và
khác nhau ở từng bệnh nhân. Bác sĩ và y tá sẽ giải thích các tác dụng
phụ có thể gặp do điều trị và đưa ra các cách giải quyết các vấn đề gặp
phải trong và sau điều trị.
Phẫu thuật gây ra cơn đau ngắn và tăng nhạy cảm ở vùng phẫu thuật. Sự khó chịu hoặc đau sau phẫu thuật có thể kiểm soát bằng thuốc. Bệnh nhân cần thảo luận về phương pháp giảm đau với thầy thuốc. Trong vài ngày sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể gặp khó khăn khi đi tiểu và nhu động ruột chưa trở lại.
Phẫu thuật gây ra cơn đau ngắn và tăng nhạy cảm ở vùng phẫu thuật. Sự khó chịu hoặc đau sau phẫu thuật có thể kiểm soát bằng thuốc. Bệnh nhân cần thảo luận về phương pháp giảm đau với thầy thuốc. Trong vài ngày sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể gặp khó khăn khi đi tiểu và nhu động ruột chưa trở lại.
Cắt buồng trứng cũng có nghĩa là nguồn
nội tiết estrogen và progesterone của cơ thể sẽ mất và bệnh nhân sẽ mất
kinh. Các biểu hiện của mãn kinh như cơn bốc nóng, khô âm đạo xảy ra sớm
sau phẫu thuật. Một vài liệu pháp thay thế hormone có thể dùng để làm
giảm các triệu chứng này. Việc quyết định dùng là sự lựa chọn của mỗi cá
nhân. Những phụ nữ bị ung thư buồng trứng nên thảo luận với bác sĩ của
họ về những nguy cơ và lợi ích của việc dùng nội tiết thay thế.
Hóa trị tác động đến cả
tế bào ung thư và tế bào lành. Các tác dụng phụ phụ thuộc nhiều vào
loại thuốc và liều lượng thuốc được sử dụng. Các tác dụng phụ thường gặp
khi điều trị hóa chất là buồn nôn và nôn, ăn không ngon, ỉa chảy, mệt
mỏi, tê và cảm giác kim châm ở bàn tay bàn chân, đau đầu, rụng tóc, sạm
da và móng. Một số thuốc dùng trong ung thư buồng trứng có thể làm giảm
khả năng nghe và gây tổn thương thận. Để bảo vệ thận trong khi dùng
thuốc, bệnh nhân cần truyền nhiều dịch.
Xạ trị, giống như hóa
trị cũng tác động đến cả tế bào lành và tế bào ung thư. Các tác dụng phụ
do xạ trị phụ thuộc chủ yếu vào liều xạ và phần cơ thể bị chiếu xạ. Tác
dụng phụ hay gặp khi chiếu xạ vào vùng bụng là mệt mỏi, chán ăn, buồn
nôn, nôn, đái khó, ỉa chảy và biến đổi da vùng bụng. Xạ trị trong phúc
mạc có thể gây đau bụng và tắc ruột.
Theo dõi định kỳ sau điều trị:
Theo dõi chăm sóc sau điều trị ung thư buồng trứng là rất quan trọng. Kiểm tra đều đặn bao gồm thăm khám lâm sàng và làm PAP test . Bác sĩ có thể yêu cầu làm thêm các xét nghiệm như chụp phổi, chụp cắt lớp, siêu âm ổ bụng, xét nghiệm máu và định lượng CA-125. Bệnh nhân có thể yêu cầu bác sĩ kiểm tra cho họ các bệnh ung thư khác. Phụ nữ bị ung thư buồng trứng thường có nguy cơ cao bị ung thư vú hoặc ung thư đại tràng. Hơn nữa, việc dùng một số thuốc chống ung thư có thể gây một ung thư thứ phát như ung thư máu.
2. Khám định kỳ theo dõi ung thư buồng trứng
Theo dõi chăm sóc sau điều trị ung thư buồng trứng là rất quan trọng. Kiểm tra đều đặn bao gồm thăm khám lâm sàng và làm PAP test . Bác sĩ có thể yêu cầu làm thêm các xét nghiệm như chụp phổi, chụp cắt lớp, siêu âm ổ bụng, xét nghiệm máu và định lượng CA-125. Bệnh nhân có thể yêu cầu bác sĩ kiểm tra cho họ các bệnh ung thư khác. Phụ nữ bị ung thư buồng trứng thường có nguy cơ cao bị ung thư vú hoặc ung thư đại tràng. Hơn nữa, việc dùng một số thuốc chống ung thư có thể gây một ung thư thứ phát như ung thư máu.
2. Khám định kỳ theo dõi ung thư buồng trứng
Theo
dõi sau khi điều trị ung thư buồng trứng là rất quan trọng. Khám định
kỳ thường bao gồm khám lâm sàng chung, khám vùng chậu và nghiệm pháp
PAP. Bác sĩ còn tiến hành các xét nghiệm bổ sung như chụp X quang lồng
ngực, chụp cắt lớp vi tính, phân tích nước tiểu, xét nghiệm công thức
máu và CA-125.
Bên cạnh việc khám theo dõi để phát hiện
bệnh tái phát, bệnh nhân có thể muốn hỏi bác sĩ về việc khám thăm dò để
phát hiện ra các loại ung thư khác. Bệnh nhân ung thư buồng trứng có
nguy cơ ung thư vú và đại tràng cao hơn. Bên cạnh đó, điều trị bằng một
số loại thuốc nhất định có thể làm tăng nguy cơ mắc loại ung thư thứ
hai, chẳng hạn như bệnh ung thư tế bào máu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét