Thực quản là một ống dài, mềm mại chạy từ họng xuống dạ dày. Thực quản chuyển thức ăn đến dạ dày để được tiêu hóa. Ung thư thực quản phát xuất từ các tế bào lót mặt trong của thực quản, có thể mọc bất cứ chỗ nào của ống này. Tỷ lệ đàn ông mắc bệnh này nhiều gấp bội so với phụ nữ, độ tuổi thường gặp là 45 - 70 tuổi.
Ung thư thực quản là khối u ác tính từ các tế bào ung thư ở thực quản. Ung thư thực quản được chia thành hai loại chính: ung thư biểu mô tế bào vẩy và ung thư biểu mô tế bào tuyến, tuỳ thuộc vào loại tế bào ác tính.
Ung thư biểu mô tế bào vẩy xuất phát từ tế bào vẩy lót niêm mạc thực quản. Loại ung thư này thường xuất hiện ở phần trên hoặc phần gìữa thực quản. Ung thư biểu mô tế bào tuyến thường phát triển trong mô tuyến ở phần dưới thực quản.
Nếu ung thư lan ra ngoài thực quản, đầu tiên nó thường lan tới hạch. Ung thư thực quản cũng có thể lan tới hầu như bất kỳ phần nào của cơ thể, như gan, phổi, não bộ và xương.
Tỷ lệ mắc bệnh ung thư thực quản chiếm 2% trên tổng số tất cả các căn bệnh ung thư, mỗi năm trên thế giới ước tính có đến 300 nghìn người chết do ung thư thực quản, độ tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc ung thư thực quản càng tăng cao. Trước 35 tuổi, tỷ lệ mắc ung thư thực quản rất thấp, sau 35 tuổi thì tỷ lệ phát bệnh tăng theo sự tăng dần về tuổi tác, độ tuổi từ 60 – 69 là nhóm có nguy cơ mắc ung thư thực quản cao nhất.
Ung thư thực quản nguy hiểm như thế nào?
Về lâm sàng, khi bệnh nhân ung thư thực quản cảm thấy ăn bị nghẹn, không nên cố nuốt, nếu không nó sẽ kích thích các tế bào ung thư và gây ra chảy máu, di căn và đau đớn...Bệnh nhân bị nặng sẽ cảm thấy đau ở vùng ngực và lưng kèm theo sốt, nhịp tim tăng nhanh, tăng bạch cầu… Một số bệnh nhân ung thư thực quản có thể bị thủng thực quản, do đó dần dần phát triển đến giai đoạn không thể ăn, giảm cân nhanh chóng, thể chất suy giảm, dẫn đến mệt mỏi, khó khăn trong vận động, thiếu máu, dần dần không thể tự chăm sóc bản thân, những nguy hiểm này đều gây ra do ung thư thực quản.
Về lâm sàng, khi bệnh nhân ung thư thực quản cảm thấy ăn bị nghẹn, không nên cố nuốt, nếu không nó sẽ kích thích các tế bào ung thư và gây ra chảy máu, di căn và đau đớn...Bệnh nhân bị nặng sẽ cảm thấy đau ở vùng ngực và lưng kèm theo sốt, nhịp tim tăng nhanh, tăng bạch cầu… Một số bệnh nhân ung thư thực quản có thể bị thủng thực quản, do đó dần dần phát triển đến giai đoạn không thể ăn, giảm cân nhanh chóng, thể chất suy giảm, dẫn đến mệt mỏi, khó khăn trong vận động, thiếu máu, dần dần không thể tự chăm sóc bản thân, những nguy hiểm này đều gây ra do ung thư thực quản.
Nhiều bệnh nhân ung thư thực quản đến viện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn. Ung thư thực quản là bệnh lý ác tính thường gặp ở người trên 50 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Các dấu hiệu sớm của bệnh ít được quan tâm, khi có các dấu hiệu nuốt khó, nuốt vướng, tức nặng, đau âm ỉ đè nén sau xương ức... thì bệnh thường đa ở giai đoạn muộn. Về sau, tùy theo ảnh hưởng của khối u tới các cơ quan lân cận có thể gặp thêm các triệu chứng khó thở, khàn giọng, ho khan, khạc đờm; đau thượng vị, buồn nôn, nôn, nấc...
Khối u ảnh hưởng tới toàn thân làm bệnh nhân sốt, mệt mỏi, xanh xao, ăn uống kém, gầy sút cân rõ rệt. Thậm chí khi được phát hiện muộn đa có nhiều biến chứng như viêm thủng thực quản vào trung thất gây khó thở đột ngột, tràn khí dưới da; rò thực quản vào khí phế quản làm thức ăn rơi vào đường hô hấp gây viêm phổi, áp-xe phổi... thậm chí tử vong. Nội soi cắt, vét hạch ung thư thực quản rồi tạo hình bằng dạ dày tự thân là kỹ thuật điều trị nhiều ưu điểm, giảm các tai biến nguy hiểm, bệnh nhân sớm bình phục và nhanh chóng đảm bảo các chức năng sinh lý của thực quản, người bệnh có được cảm giác ăn uống. Tuy nhiên đây là một kỹ thuật khó, bác sĩ cần có tay nghề tốt mới có thể lấy toàn bộ thực quản và các khối u di căn trong lồng ngực qua nội soi. Chất liệu dạ dày tự thân phải là dạ dày lành, chưa di căn.
Phương pháp điều trị ung thư thực quản thường thấy bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị…, những phương pháp này ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân khá lớn, hơn nữa còn dễ để sót lại các tế bào ung thư dẫn đến nguy cơ tái phát về sau. Phương án điều trị ung thư thực quản của bệnh viện ung bướu Hưng Việt cần căn cứ vào bệnh sử, biến chứng vị trí, kích thước khối u, phạm vi di căn,…của từng bệnh nhân để đưa ra quyết định, chỉ có những pháp đồ có tính cá nhân cho mỗi bệnh nhân với các liệu pháp điều trị khác nhau và phù hợp thì việc điều trị mới mong đạt được hiệu quả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét