Việc điều trị bệnh ung thư gan là rất khó khăn và tốn kém, đòi hỏi người bệnh phải kiên trì và giữ vững tinh thần. Các phương pháp điều trị ung thư gan như xạ trị, hóa trị, ghép gan… cũng chỉ kéo dài sự sống cho người bệnh chứ không thể chữa khỏi bệnh hoàn toàn được, và tùy vào tình trạng cụ thể của người bệnh mà có biện pháp chữa trị thích hợp.
1. Ung thư gan có thể phẫu thuật
Các lựa chọn điều trị chuẩn:
Phẫu thuật: Phẫu thuật cắt khối ung thư gan khu trú có thể là cắt một phần thuỳ đến ba phần thuỳ (80%). Trong một loạt bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận, phẫu thuật cắt gan bán phần mang lại thời gian sống thêm dài 5 năm cho 10 - 30% bệnh nhân. Ung thư tế bào gan thường có nhiều ổ và có thể đã ảnh hưởng tới nhiều vị trí trong toàn bộ gan tại thời điểm thăm khám, thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy khối u lớn nhất khi thăm dò trước phẫu thuật. Trước phẫu thuật cần làm các thăm dò để tìm di căn ngoài gan, vì tình trạng này sẽ cản trở tiến hành phẫu thuật cắt gan theo kế hoạch.
Phẫu thuật: Phẫu thuật cắt khối ung thư gan khu trú có thể là cắt một phần thuỳ đến ba phần thuỳ (80%). Trong một loạt bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận, phẫu thuật cắt gan bán phần mang lại thời gian sống thêm dài 5 năm cho 10 - 30% bệnh nhân. Ung thư tế bào gan thường có nhiều ổ và có thể đã ảnh hưởng tới nhiều vị trí trong toàn bộ gan tại thời điểm thăm khám, thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy khối u lớn nhất khi thăm dò trước phẫu thuật. Trước phẫu thuật cần làm các thăm dò để tìm di căn ngoài gan, vì tình trạng này sẽ cản trở tiến hành phẫu thuật cắt gan theo kế hoạch.
Phẫu thuật cắt hơn một góc gan ở những bệnh nhân xơ gan hoặc viêm gan hoạt động mạn tính là khó vì khả năng làm việc cúa gan phần còn lại là kém (tỷ lệ tử vong cao). Thường đó là các chống chỉ định của phẫu thuật cắt phần lớn gan nhưng có thể không chống chỉ định cho ghép gan.
Ghép gan cho những bệnh nhân ung thư tế bào nội mạc mạch gan, ung thư tế bào biểu mô dạng sợi và các khối ung thư tế bào gan nhỏ (<5cm) kèm theo hoặc không kèm theo xơ gan mang lại thời gian sống thêm năm năm cho 20-30% trường hợp.
2. Các lựa chọn điều trị đang được đánh giá trên lâm sàng
Bởi có nhiều bệnh nhân ung thư gan khu trú bị tái phát bệnh sau phẫu thuật cắt gan, cần sử dụng các biện pháp điều trị bổ trợ như phương pháp truyền hóa chất vào động mạch gan trong vùng khối u hay toàn thân. Một thử nghiệm ngẫu nhiên tiến hành trên 43 bệnh nhân cho thấy thời gian sống thêm được kéo dài khi tiêm bổ trợ sau phẫu thuật một liều đơn độc (1850 MBq) lipiodol I-131 qua động mạch gan. Thời gian sống thêm trung bình của nhóm bệnh nhân được điều trị bổ trợ là 57 tháng so với 13,6 tháng ở nhóm bệnh nhân chỉ được phẫu thuật cắt gan. Lipiodol không độc, nhưng cần phải điều trị ức chế tuyến giáp trước và sau phẫu thuật. Thử nghiệm lâm sàng được kết thúc trước dự định vì sự khác biệt về thời gian sống thêm giữa nhóm điều trị và nhóm chứng xuất hiện sớm. Vì vậy, những kết quả này chỉ được coi là sơ bộ và cần phải được kiểm chứng. Trong một nghiên cứu áp dụng liệu pháp miễn dịch dùng interleukin-2 và các tế bào lymphô tự thân hoạt hóa kháng CD3 cho thấy là chỉ kéo dài thời gian bệnh ổn định, chứ không kéo dài thời gian sống sót nói chung. Ung thư gan tái phát nhưng khu trú đôi khi có thể điều trị thành công bằng tái phẫu thuật.
3. Ung thư gan nguyên phát người lớn
Giai đoạn khu trú nhưng không thể cắt bỏ
Bệnh nhân có khối u khu trú T2, T3 và T4; N0; Mo nhưng không thể cắt bỏ do vị trí của khối u ở trong gan và các tình trạng bệnh đi kèm (như xơ gan) hoặc thậm chí là u hai bên thuỳ giới hạn có thể được điều trị theo phương pháp nút động mạch bằng hóa chất (làm giảm khối u), phá huỷ u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phương pháp phá huỷ khối u bằng nhiệt khi khối u có đường kính nhỏ hơn 5cm. Thời gian sống thêm tương đương với khi điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt gan.
Bệnh nhân có khối u khu trú T2, T3 và T4; N0; Mo nhưng không thể cắt bỏ do vị trí của khối u ở trong gan và các tình trạng bệnh đi kèm (như xơ gan) hoặc thậm chí là u hai bên thuỳ giới hạn có thể được điều trị theo phương pháp nút động mạch bằng hóa chất (làm giảm khối u), phá huỷ u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phương pháp phá huỷ khối u bằng nhiệt khi khối u có đường kính nhỏ hơn 5cm. Thời gian sống thêm tương đương với khi điều trị bằng phương pháp phẫu thuật cắt gan.
Thử nghiệm lâm sàng sử dụng hóa trị liệu toàn thân, hóa trị liệu vùng hoặc kháng thể gán đồng vị phóng xạ có thể làm bệnh ổn định khi khối u gan không thể cắt bỏ. Các phương pháp điều trị khác bao gồm nút động mạch gan bằng bột gel xốp hoặc là các phần cơ và hóa chất, thường là adriamycin. Những phương pháp này thường gây hoại tử ở trong tâm khối u, làm giảm kích thước khối u và giảm đau, nhưng tác dụng của nó thường chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Bất kỳ sự can thiệp nào vào hệ thống tưới máu động mạch (bao gồm cả hóa trị liệu truyền) có thể làm cho bệnh nặng hơn và bị chống chỉ định khi có tăng áp lực tĩnh mạch cửa, huyết khối tĩnh mạch cửa hoặc vàng da trên lâm sàng. Một nghiên cứu ngẫu nhiên kết thúc sớm cho thấy phương pháp nút động mạch bằng hóa chất không kéo dài thêm được thời gian sống so với điều trị bảo tồn.
Các lựa chọn điều trị gồm:
- Nút động mạch bằng hóa chất, phá huỷ u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phá huỷ u bằng nhiệt đối với khối u nhỏ (có đường kính từ 5cm trở xuống), khu trú nhưng không thể cắt bỏ.
- Nút động mạch bằng hóa chất, phá huỷ u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phá huỷ u bằng nhiệt đối với khối u nhỏ (có đường kính từ 5cm trở xuống), khu trú nhưng không thể cắt bỏ.
- Đối với một số bệnh nhân ung thư gan khu trú không thể cắt bỏ, đặc biệt là ung thư tế bào gan dạng sợi, ghép gan có thể là lựa chọn điều trị hữu hiệu.
- Hóa trị liệu (truyền vào vùng khối u gan): hóa chất có thể truyền bằng một bơm đặt dưới da vào tĩnh mạch cửa qua một ống catheter đặt vào động mạch gan. Các nghiên cứu trước đây sử dụng các hóa chất chuẩn đã cho thấy tỷ lệ đáp ứng đạt được ở 15%-30% các trường hợp như vậy, nhưng các hóa chất và kĩ thuật mới hơn (vi hạt giáng hóa sinh học) đã được đánh giá trong các thử nghiệm lâm sàng đi đầu, cũng như hóa trị liệu vùng kết hợp với chiếu xạ ngoài. Nhiều bệnh nhân không được điều trị bằng những phương pháp này vì những phương pháp này thường đòi hỏi phẫu thuật can thiệp.
- Hóa trị liệu toàn thân: Thời gian bệnh ổn định kéo dài là hiếm gặp và thời gian sống thêm không tăng lên đáng kể.
- Phẫu thuật, hóa trị liệu và tia xạ trị liệu: Các phương pháp này có thể được phối hợp trong các thử nghiệm lâm sàng đối với những bệnh nhân có một khối u gan chính với nhiều ổ nhưng số lượng khối u ít, phẫu thuật cắt gan hay phẫu thuật cắt lạnh khối u chính có thể tiến hành trước khi truyền hóa chất vào phần gan còn lại đơn độc hoặc kết hợp với phương pháp thấu nhiệt, tia phóng xạ hoặc tia xạ và chất mẫn cảm phóng xạ. Hóa trị liệu kết hợp với tia phóng xạ cũng được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi phẫu thuật.
- Tiêm alcohol vào trong khối u.
- Các phương pháp khác bao gồm sử dụng chất mãn cảm phóng xạ và chiếu xạ ngoài mà không dùng hóa chất. Tính nhạy cảm phóng xạ của mô gan lành so sánh với mô u phải luôn được theo dõi khi sử dụng tia xạ trị liệu.
- Phá huỷ khối u bằng nhiệt.
Giai đoạn muộn
Không có phương pháp điều trị chuẩn nào cho bệnh nhân ung thư gan di căn giai đoạn muộn (T bất kỳ, N1 hoặc Mi). Những bệnh nhân như vậy nên xem xét việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác dụng của các loại thuốc điều trị ung thư hoặc sinh học mới (các nghiên cứu giai đoạn I và II) hoặc kết hợp các loại thuốc hiện đang lưu hành, các chất mẫn cảm phóng xạ và tia xạ trị liệu. Trong những nghiên cứu này đôi khi thấy có kết quả làm bệnh ổn định.
Không có phương pháp điều trị chuẩn nào cho bệnh nhân ung thư gan di căn giai đoạn muộn (T bất kỳ, N1 hoặc Mi). Những bệnh nhân như vậy nên xem xét việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác dụng của các loại thuốc điều trị ung thư hoặc sinh học mới (các nghiên cứu giai đoạn I và II) hoặc kết hợp các loại thuốc hiện đang lưu hành, các chất mẫn cảm phóng xạ và tia xạ trị liệu. Trong những nghiên cứu này đôi khi thấy có kết quả làm bệnh ổn định.
Điều trị bằng chiếu xạ ngoài và hóa trị liệu kèm theo kháng thể anti-ferritin đa clon đánh dấu phóng xạ sau đó tạo ra đáp ứng khách quan ở khoảng 50% bệnh nhân, nhưng nó là phương pháp điều trị tại chỗ và không thề điều trị bệnh toàn thân.
Ung thư gan nguyên phát người lớn tái phát
Tiên lượng đối với tất cả bệnh nhân ung thư gan nguyên phát đã được điều trị nhưng bệnh vẫn tiến triển hay tái phát là không tốt. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị tiếp theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm việc điều trị trước đó, vị trí tái phát, sự có mặt của bệnh xơ gan và chức năng gan cũng như suy nghĩ của từng cá nhân.
Tiên lượng đối với tất cả bệnh nhân ung thư gan nguyên phát đã được điều trị nhưng bệnh vẫn tiến triển hay tái phát là không tốt. Việc lựa chọn các phương pháp điều trị tiếp theo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm việc điều trị trước đó, vị trí tái phát, sự có mặt của bệnh xơ gan và chức năng gan cũng như suy nghĩ của từng cá nhân.
Nên phẫu thuật lại nếu có thể, nhưng hầu hết bệnh nhân đều tái phát, thường là ở gan.
Nếu không thể phẫu thuật lại được, các lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư gan tái phát có thể bao gồm việc sử dụng phương pháp thuyên tắc hóa dầu qua động mạch (TOCE), tiêm ethanol qua da (PEIT), hóa trị liệu hoặc ghép gan.
Tại một viện duy nhất cùa Hồng Kông, các bác sĩ tiến hành theo dõi 244 bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan để phát hiện tái phát trong gan. Trong số 244 bệnh nhân, 139 bệnh nhân không bị tái phát trong gan và thời gian sống thêm một năm, ba năm, năm năm tương ứng là 87%, 79% và 74%. Trong Số 105 bệnh nhân ung thư tái phát trong gan, 11 bệnh nhân được điều trị bằng tái phẫu thuật và tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 81%, 70% và 69%; 71 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp TOCE và tỳ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 72%, 38%, 20%; 6 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp PEIT có tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 67%, 22% và 0%; 17 bệnh nhân còn lại được điều trị hoặc bằng hóa trị liệu toàn thân hoặc điều trị bảo tồn, không có bệnh nhân nào sống thêm được ba năm. Các thử nghiệm lâm sàng là hợp lý và nên áp dụng khi có thể.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét