2015-01-11

Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

Ung thư cổ tử cung - những con số biết nói

Ung thư cổ tử cung là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, để lại nỗi đau cho nhiều phụ nữ, tước đoạt quyền làm mẹ, làm vợ thiêng liêng, gây ra gánh nặng tâm lý to lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sống của phụ nữ. Ung thư cổ tử cung xảy ra với bất kỳ ai, và các 'con số biết nói' dưới đây sẽ là lời cảnh tỉnh cho phụ nữ nào nghĩ ung thư cổ tử cung không thể xảy ra với họ
Ít nhất 15 týp vi rút HPV gây ung thư cổ tử cung
Đây không phải là căn bệnh di truyền. Gần 100% các ca ung thư cổ tử cung đều do lây nhiễm các týp vi rút HPV sinh ung thư. Có khoảng 15 týp HPV gây ung thư cổ tử cung. Trong đó, hai týp 16 và 18 chiếm đến 70% trường hợp, và nếu tính thêm 31, 33 và 45 thì chiếm đến 80% số ca ung thư. Đây là 5 týp HPV phổ biến nhất gây ung thư cổ tử cung trên toàn cầu.
80% phụ nữ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời 

HPV dễ dàng lây nhiễm qua đường tình dục. Điều này có nghĩa là bất cứ ai có quan hệ tình dục, hoặc chỉ cần tiếp xúc ngoài da ở bộ phận sinh dục, đều có nguy cơ nhiễm HPV, dẫn đến ung thư cổ tử cung. Nguy cơ này có thể bắt đầu từ lần quan hệ tình dục đầu tiên và kéo dài suốt đời.
Theo thống kê cứ 10 phụ nữ thì sẽ có 8 người nhiễm HPV ít nhất 1 lần trong đời. ung thư cổ tử cung nguy hiểm vì bệnh diễn tiến âm thầm và thường chỉ được phát hiện ở giai đoạn muộn, hoặc quá muộn, khi đã chậm trễ trong việc điều trị phẫu thuật và buộc phải xạ trị, hóa trị cho bệnh nhân.
Hơn 500.000 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung mỗi năm
Ung thư cổ tử cung là một trong những căn bệnh ác tính gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ, chỉ sau ung thư vú. Trên thế giới, cứ mỗi 2 phút có 1 phụ nữ tử vong vì bệnh ung thư cổ tử cung. Đặc biệt ung thư cổ tử cung có đến 80% gánh nặng bệnh đến từ các khu vực kém phát triển, nơi còn thiếu các chương trình sàng lọc hiệu quả.
Mỗi năm có hơn 500.000 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung và khoảng 260.000 ca tử vong trên toàn cầu. Tại Việt Nam, mỗi ngày có 7 phụ nữ tử vong vì căn bệnh này.
Vắc xin tập trung phòng ngừa nhiều týp HPV gây ung thư cổ tử cung hiệu quả
Ung thư cổ tử cung nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa được. Hiện đã có vắc xin phòng ngừa HPV gây ung thư cổ tử cung. Tại Việt Nam, phụ nữ tuổi từ 9, 10 đến 25, 26, kể cả chưa lập gia đình hoặc đã có quan hệ tình dục đều có thể tiêm vắc xin phòng ngừa HPV - thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung. Mọi phụ nữ trong độ tuổi cho phép đều có thể tiếp cận được với biện pháp dự phòng chủ động nhất bằng cách tiêm ngừa phòng bệnh ung thư cổ tử cung! Vắc xin phòng ngừa ung thư cổ tử cung hiệu quả là vắc xin tập trung phòng nhiều týp HPV gây ung thư cổ tử cung.
Tầm soát định kỳ để bảo vệ bạn khỏi ung thư cổ tử cung
Việc phòng ngừa sẽ đạt kết quả cao khi kết hợp cả phương pháp tiêm vắc xin và tầm soát, có thể bằng phết tế bào cổ tử cung định kỳ, để phát hiện kịp thời và có giải pháp điều trị ở giai đoạn sớm của bệnh.
Việc chủ động chủng ngừa và tầm soát ung thư cổ tử cung định kỳ là biện pháp bảo vệ mình và người thân tránh khỏi căn bệnh hiểm nghèo này.
Xem thêm về ung thư cổ tử cung: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

Ung thư cổ tử cung có di truyền không?

Theo WHO/ICO HPV Information Centre 2014, ung thư cổ tử cung là một bệnh lý ác tính xếp thứ hai, chỉ sau ung thư vú ở nữ giới 15-44 tuổi. Mỗi năm có đến hơn 500.000 người được chẩn đoán mắc mới ung thư cổ tử cung và có hơn 256.000 ca tử vong vì căn bệnh này trên thế giới. Tại Việt Nam, mỗi ngày có 7 phụ nữ tử vong vì căn bệnh này.
80% phụ nữ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời.

Ung thư cổ tử cung không phải là căn bệnh di truyền. Gần 100% các ca ung thư cổ tử cung đều do lây nhiễm các týp vi rút HPV sinh ung thư. Có hơn 15 týp HPV gây ung thư cổ tử cung, trong đó, HPV 16, 18, 31, 33 và 45 chiếm 80% số ca ung thư. Đây là năm týp HPV gây ung thư cổ tử cung phổ biến nhất trên toàn cầu. 
HPV dễ dàng lây nhiễm qua đường tình dục, bất cứ ai có quan hệ tình dục, hoặc chỉ cần tiếp xúc ngoài da ở bộ phận sinh dục, đều có nguy cơ nhiễm HPV, dẫn đến ung thư cổ tử cung. Nguy cơ này có thể bắt đầu từ lần quan hệ tình dục đầu tiên và kéo dài suốt đời. Có đến 80% phụ nữ nhiễm HPV ít nhất một lần trong đời.

Ung thư cổ tử cung nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa được.

Hiện đã có vắc xin phòng ngừa HPV gây ung thư cổ tử cung. Tại Việt Nam, phụ nữ tuổi từ 9, 10 đến 25, 26, kể cả chưa lập gia đình hoặc đã có quan hệ tình dục đều có thể tiêm vắc xin phòng ngừa HPV - thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung. Vắc xin phòng ngừa ung thư cổ tử cung hiệu quả là vắc xin tập trung phòng nhiều týp HPV gây ung thư cổ tử cung.
Việc phòng ngừa sẽ đạt kết quả cao khi kết hợp cả phương pháp tiêm vắc xin và tầm soát, có thể bằng phết tế bào cổ tử cung định kỳ, để phát hiện kịp thời và có giải pháp điều trị ở giai đoạn sớm của bệnh.

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 


Nguyên nhân dẫn đến ung thư cổ tử cung

Gần 3.400 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư cổ tử cung ở Anh mỗi năm. Nhìn chung, 2 trong số 100 bệnh ung thư được chẩn đoán ở phụ nữ là ung thư cổ tử cung. Nó là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ dưới 35 tuổi. Vậy nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung là gì?
1. Nhiễm HPV
HPV lây lan khi quan hệ tình dục và được cho là rất phổ biến.Ước tính có khoảng 1 trong 3 phụ nữ sẽ phát triển một nhiễm HPV trong vòng hai năm bắt đầu có quan hệ tình dục thường xuyên.
Hai loại HPV được biết là có nguyên nhân gây ung thư cổ tử. Đó là:
  • HPV16 – chiếm khoảng 50-55% của tất cả các trường hợp
  • HPV18 – chiếm khoảng 15-20% của tất cả các trường hợp
Hơn 11 loại HPV cũng có cơ hội cao hơn gây ung thư.

Hiện nay đã có vắc-xin để phòng ngừa nhiễm HPV . Tất cả các cô gái ở độ tuổi 12 hoặc 13 ở Anh được thường xuyên cung cấp các chủng ngừa HPV ở trường. Các vắc-xin bảo vệ chống lại các chủng HPV có nhiều khả năng gây ra ung thư cổ tử cung. Nhưng nó không bảo vệ chống lại tất cả các chủng.
2. Các yếu tố nguy cơ khác
Thực tế là nhiễm HPV là rất phổ biến nhưng ung thư cổ tử cung là tương đối phổ biến dường như cho thấy rằng chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ phụ nữ dễ bị tác động của sự nhiễm HPV. Có vẻ như là các yếu tố nguy cơ khác có ảnh hưởng đến cơ hội của một cá nhân mắc bệnh ung thư cổ tử cung.
Yếu tố nguy cơ bao gồm:
  • Hút thuốc - những người phụ nữ hút thuốc có khả năng bị ung thư cổ tử cung gấp 2 lần hơn so với người không hút thuốc, điều này có thể là do tác hại của hóa chất có trong thuốc lá trên các tế bào cổ tử cung
  • Hệ thống miễn dịch yếu - đó có thể là kết quả của việc dùng thuốc nhất định, chẳng hạn như ức chế miễn dịch, được sử dụng để ngăn chặn cơ thể từ chối các cơ quan hỗ trợ, hoặc là kết quả của sự nhiễm HIV / AIDS
  • Uống  thuốc tránh thai trong hơn năm năm - những người phụ nữ làm điều này được cho là có gấp đôi nguy cơ phát triển ung thư cổ tử cung hơn những người không uống thuốc
  • Sinh nhiều con  - những người phụ nữ có hai con có gấp đôi nguy cơ ung thư cổ tử cung so với những phụ nữ không có con
Lý do cho mối liên hệ giữa nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung và sinh con là không rõ ràng. Một giả thuyết cho rằng những thay đổi nội tiết tố xảy ra trong khi mang thai có thể làm cho cổ tử cung dễ bị tổn thương hơn với tác động của HPV.
Xem thêm về ung thư cổ tử cung: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

Ung thư cổ tử cung - Đừng tuyệt vọng

Ba năm trước, bà Y. được chẩn đoán mắc ung thư cổ tử cung, và bà đã trải qua hóa trị và xạ trị hơn ba tháng. Bà phải chịu đựng những biến chứng do tác dụng phụ của xạ trị.
Sáu tháng sau khi hoàn thành điều trị, ruột của bà bị thủng và bắt đầu chảy máu. Để cứu sống bà, các bác sĩ đã cắt bỏ một đoạn đại tràng và đặt một hậu môn nhân tạo vĩnh viễn.
Bà chỉ vừa làm quen với việc có hậu môn nhân tạo thì lại bắt đầu bị chảy máu âm đạo. Bà Y. nghĩ  là do tác dụng phụ của xạ trị, nhưng không phải, vì đã hơn hai năm từ khi kết thúc xạ trị.
Nỗi sợ hãi lớn nhất của bà Y. đã xảy ra như dự kiến khi bà đến gặp bác sĩ và phát hiện ung thư đã tái phát. Trong 12 tháng tiếp theo, bà Y. đã trải qua hóa trị để ngăn chặn bệnh ung thư, và được các bác sĩ cho biết việc điều trị không tiến triển tốt.
Bà được thông báo để chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất và chấm dứt việc điều trị vì không thể làm gì khác hơn.

Tháng 2/2009, bà đến Singapore và tư vấn với bác sĩ. Bệnh nhân nhớ lại: "Điều đầu tiên bác sĩ nói với tôi là tôi không giống như một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Thông thường, nếu bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn muộn, tôi sẽ biết ngay bằng cách nhìn, và bà thì không phải như vậy".
Bệnh nhân được chụp PET scan. Kết quả cho thấy ung thư còn giới hạn trong cổ tử cung.
Các kết quả rất đáng khích lệ mà ngay cả bác sĩ cũng rất ngạc nhiên. Bà Y. đến gặp hai bác sĩ mà bác sĩ chính đề nghị.
Cả hai bác sĩ phẫu thuật đều nhất trí rằng họ không chỉ tự tin loại bỏ bệnh ung thư bằng phẫu thuật, mà còn có thể đóng hậu môn giả để bà Y. có thể đại tiện bình thường.
Tháng 3/2009, phẫu thuật đã thành công và khi trở lại để theo dõi vào tháng 7/2009, bà Y. hoàn toàn khỏi bệnh!
Xem thêm về ung thư cổ tử cung: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

Bạn đã biết gì về ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung là ung thư khối u ác tính. Có nhiều loại ung thư cổ tử cung, phổ biến nhất là ung thư biểu mô tế bào vảy, chiếm khoảng 80-85% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Loại khác là ung thư biểu mô tuyến. Nhiễm virus HPV là một tác nhân tất yếu trong sự hình thành các loại ung thư này.
Dấu hiệu và triệu chứng
Ung thư cổ tử cung giai đoạn muộn có những biểu hiện như chảy máu âm đạo, đau lưng; các triệu chứng về đường tiết niệu, như chứng khó tiểu và nước tiểu đục, táo bón mạn tính và mót rặn.
Đau khi quan hệ tình dục và tiết dịch âm đạo cũng là triệu chứng của ung thư cổ tử cung giai đoạn muộn. Các triệu chứng ít thấy hơn bao gồm chán ăn, giảm cân, mệt mỏi, đau chân, chân sưng phù một bên, rò rỉ nước tiểu hoặc phân từ âm đạo.
Ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm không có triệu chứng.
Những ai có nguy cơ?
Tất cả phụ nữ có quan hệ tình dục đều có nguy cơ ung thư cổ tử cung.
Tuy nhiên, phụ nữ có nhiều bạn tình (hoặc những người có quan hệ tình dục với nam giới có nhiều bạn tình) có nguy cơ cao hơn. Phụ nữ bắt đầu quan hệ tình dục không có bảo vệ trước 16 tuổi có nguy cơ cao nhất.
Tầm soát
Vắc xin để chống lại các chủng HPV gây bệnh ung thư cổ tử cung đã có mặt trên thị trường, tuy nhiên nó chỉ kiểm soát một số loại có nguy cơ cao. Vì thế, phụ nữ nên thường xuyên phết tế bào âm đạo, ngay cả sau khi chích ngừa, để tầm soát bệnh từ sớm nhất.
Điều trị ung thư cổ tử cung
Giai đoạn đầu (IB1 và IIA nhỏ hơn 4cm) có thể được điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ tận gốc tử cung kết hợp loại bỏ các hạch bạch huyết. Sau khi phẫu thuật, một số bệnh nhân có nguy cơ cao được điều trị bằng xạ trị có kèm hoặc không kèm hóa trị để giảm nguy cơ tái phát.
Giai đoạn sớm với khối u lớn hơn (IB2 và IIA lớn hơn 4cm) có thể được điều trị bằng xạ trị và hóa trị. Thủ thuật cắt bỏ tử cung có thể thực hiện sau khi hóa - xạ trị để kiểm soát tốt hơn ung thư tại chỗ. Một số bệnh nhân bị tái phát có thể phải phẫu thuật tại thời điểm tái phát.
Xem thêm về ung thư cổ tử cung: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

7 phụ nữ chết vì ung thư cổ tử cung mỗi ngày

Tuổi phát hiện bệnh nhiều nhất là từ 45 trở đi. Bởi bình quân sau khi nhiễm vi rút HPV (vi rút gây ung thư cổ tử cung) từ 10 - 15 năm thì tổn thương do bệnh mới xuất hiện.
Biểu hiện tổn thương tại tử cung có thể là chồi, sùi, loét, dễ chảy máu, hoặc tiết dịch hôi… chính là dấu hiệu của ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu.
Không phải ai nhiễm vi rút HPV cũng đều dẫn đến ung thư cổ tử cung, mà 80% trong số nhiễm vi rút này sẽ tự khỏi bệnh.
HPV có nhiều tuýp, nhưng đáng ngại nhất là tuýp 16 và 18 - hai tuýp này chiếm 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung.

Theo các bác sĩ, trước đây các xét nghiệm tầm soát bệnh đơn thuần là PAP (phết tế bào âm đạo). Nay có thêm xét nghiệm HPV DNA. Xét nghiệm khuyến cáo làm ở độ tuổi 30 - 35, nhằm phát hiện bệnh sớm.
Theo một số bác sĩ, tính đến thời điểm hiện nay, uống văcxin có chức năng chống nhiễm và tái nhiễm virus HPV vẫn được xem là phương pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất. Tại Việt Nam, Gardasil và Cervarix là hai loại văcxin có thể khắc chế được đến 99% sự tấn công của HPV gây ung thư cổ tử cung.
Với những tiến bộ của y khoa hiện đại, căn bệnh này có thể được chữa khỏi nếu bệnh được phát hiện sớm. Tuy nhiên ở giai đoạn muộn ung thư cổ tử cung lại rất khó chữa. Kể từ khi xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung (xét nghiệm tế bào học cổ tử cung hay còn gọi là xét nghiệm Pap) ra đời và ứng dụng rộng rãi trong cộng đồng thì tỷ lệ ung thư cổ tử cung đã giảm một cách đáng kể.
Có thể nói, nhờ có các công cụ chẩn đoán sớm chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát căn bệnh ung thư cổ tử cung nguy hiểm. Mỗi phụ nữ hãy quan tâm hơn đến sức khỏe của mình bằng cách khám phụ khoa và làm xét nghiệm ung thư cổ tử cung định kỳ.

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

Ung thư cổ tử cung khó nhận biết.

Ung thư cổ tử cung khó nhận biết do không gây đau và không có những dấu hiệu khác lạ chính là đặc điểm nguy hiểm nhất của căn bệnh này.  
Tại Việt Nam, ước tính cứ 100 nghìn phụ nữ thì có 20 trường hợp mắc bệnh và 11 trường hợp tử vong.
Nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung là loại virus có tên Human papillomavirus (viết tắt: HPV). Virus này thường gây nhiễm ở phụ nữ có độ tuổi từ 30 đến 60 đã qua quan hệ tình dục.
Các xét nghiệm gần đây, cho thấy, HPV có mặt trong 99,7% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Virus này có 150 chủng khác nhau, trong đó khoảng 40 chủng lây truyền qua đường tình dục và có thể gây nên tổn thương ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung và dương vật... Đặc biệt, chủng 16 và 18 là thủ phạm gây ung thư cổ tử cung.
HPV dễ bị lây nhiễm hơn cả HIV, bởi ngoài lây truyền qua đường tình dục, virus này nhiễm trực tiếp qua da trong những trường hợp dùng chung quần áo, dụng cụ cắt móng tay... Tại Viêt Nam, mỗi ngày có 17 phụ nữ được chẩn đoán ung thư cổ tử cung và 9 người chết vì căn bệnh này
Từ các nghiên cứu thực tiễn, các bác sĩ cho rằng, với loại virus này, việc dùng bao cao su tỏ ra không hữu hiệu. Tuy nhiên hiện nay, phương pháp thử nghiệm tế bào cổ tử cung đã có thể giúp phát hiện ung thư ngay từ lúc bệnh mới hình do virus HPV. Chính vì thế, những phụ nữ đã có quan hệ tình dục hoặc trong độ tuổi dễ nhiễm bệnh, cần đến các bệnh viện chuyên khoa phụ sản mỗi năm ít nhất 1 lần để thăm khám để sớm khắc chế lây lan.
Theo một số bác sĩ, tính đến thời điểm hiện nay, uống văcxin có chức năng chống nhiễm và tái nhiễm virus HPV vẫn được xem là phương pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất. Tại Việt Nam, Gardasil và Cervarix là hai loại văcxin có thể khắc chế được đến 99% sự tấn công của HPV gây ung thư cổ tử cung. 

Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt

Địa chỉ: Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 0462 50 07 07| Fax: 04.6280 0108 

Phương pháp chẩn đoán ung thư cổ tử cung mới.

Ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ 3 trong số ung thư của bộ máy sinh dục nữ, được sàng lọc sớm bằng soi phiến đồ âm đạo, được chẩn đoán xác định bằng soi cổ tử cung và sinh thiết. Tuy nhiên để quyết định chiến lược điều trị như khoét chóp, cắt toàn bộ tử cung, tia xạ- hóa trị liệu đơn độc hay kết hợp các phương pháp, cần phải đánh giá được giai đoạn của ung thư cổ tử cung. Chụp cộng hưởng từ có từ trường cao 1.5 Tesla hiện đang là phương pháp chẩn đoán ung thư cổ tử cung bằng hình ảnh tối ưu để giúp phân giai đoạn ung thư.
Đánh giá đúng để có chiến lược điều trị đúng
Ung thư cổ tử cung là bệnh ung thư hay gặp ở phụ nữ, chỉ đứng sau ung thư vú và ung thư buồng trứng, đặc biệt hay gặp ở các nước kém phát triển. Về chẩn đoán, ngoài dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân (thường là rong kinh hay ra huyết bất thường) và thăm khám âm đạo, hiện nay phương pháp để sàng lọc sớm ung thư cổ tử cung là phương pháp soi tế bào phiến đồ âm đạo (Pap), để chẩn đoán xác định, người ta dùng soi cổ tử cung và sinh thiết. Tuy nhiên, để quyết định chiến lược điều trị ung thư cổ tử cung cần phải đánh giá được giai đoạn của bệnh theo bảng phân giai đoạn của Hiệp hội sản phụ khoa quốc tế (FIGO- International Federation of Gynecology and Obstetrics) mà trên thế giới hiện đang dùng. Đây chính là nhiệm vụ của chẩn đoán hình ảnh mà trong đó đặc biệt là chụp cộng hưởng từ. Chụp cộng hưởng từcó từ trường cao 1.5 Tesla sẽ đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ cổ tử cung, đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), xâm lấn vào ống âm đạo. Trên cơ sở đó sẽ giúp bác sĩ điều trị có được chỉ định điều trị phù hợp nhất.
Chiến lược điều trị ung thư cổ tử cung hoàn toàn phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Trước đây và trong phần lớn các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay, các bác sĩ lâm sàng vẫn dựa vào thăm khám âm đạo và sinh thiết để đánh giai đoạn của bệnh. Tuy nhiên sinh thiết chỉ đánh giá được các giai đoạn ung thư tại chỗ và ung thư giai đoạn tiền lâm sàng, còn thăm khám âm đạo đánh giá các giai đoạn tiến triển hơn của bệnh có độ chính xác rất thấp (độ chính xác 68- 83%) ở ung thư giai đoạn lâm sàng, khi kích thước khối u ở mức độ 4cm. Trong giai đoạn ung thư phát triển ra ngoài cổ tử cung, chỉ ở 2/3 trên âm đạo và chưa tới thành bên tiểu khung thì chỉ đánh giá được 46-61%.
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính cũng có rất ít giá trị trong đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ của UTCTC. Trong khi đó, cộng hưởng từ từ trường cao 1.5 Tesla có độ phân giải cao, có chuỗi xung T1 xóa mỡ, có khả năng đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ, vào đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), vào ống âm đạo sẽ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tối ưu để giúp phân giai đoạn ung thư cổ tử cung.
Xem thêm về ung thư cổ tử cung tại: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Triệu chứng, phòng ngừa ung thư âm hộ

Triệu chứng ung thư âm hộ
Triệu chứng ung thư âm hộ sớm hay gặp là ngứa âm hộ một thời gian dài, có liên quan đến các tổn thương tiền ung thư. Về sau bệnh nhân có thể có chảy máu, chảy dịch khi có loét bề mặt, muộn hơn có đái khó và đau.

Bệnh nhân thường tự thấy khối u, khi để muộn có thể sùi thành khối lớn. Hiện còn nhiều bệnh nhân đến khám ở giai đoạn muộn do ngại đi khám hoặc đi khám nhưng thầy thuốc không có kinh nghiệm trong việc phát hiện các tổn thương sớm.
Khám thực thể

Khám thấy tổn thương nổi gồ, có thể đỏ tươi, loét, hoặc có những mảng trắng hoặc có những nụ sùi. Hầu hết UTAH biểu hiện đơn ổ trên bệnh nhân đã mãn kinh thường liên quan đến các tổn thương mãn tính ở âm hộ. Có khoảng 5% biểu hiện đa ổ thường ở những phụ nữ trẻ.
Vị trí thường gặp ở môi lớn (50%), sau đó là môi nhỏ (15-20%) và sau cùng là âm vật.
Cần khám phụ khoa toàn diện, khám hạch bẹn, các cơ quan xung quanh đánh giá mức độ xâm lấn của bệnh.
Để chẩn đoán sớm, trước một tổn thương âm hộ, thầy thuốc cần bấm sinh thiết.

Sử dụng máy soi cổ tử cung sau khi chấm acid acetic 3-6% và đợi 5 phút giúp quan sát tốt hơn để chọn vị trí sinh thiết, đặc biệt ở những phụ nữ có các tổn thương rộng.
Phòng ngừa ung thư âm hộ
- Tiêm vắc-xin phòng HPV: Trẻ gái và phụ nữ trẻ có thể xem xét việc tiêm vắc-xin HPV để bảo vệ chống lại các chủng vi-rút được cho là gây ra các trường hợp ung thư âm hộ.
- Giảm nguy cơ các bệnh lây truyền qua đường tình dục:
+ Hạn chế số lượng bạn tình vì người càng có nhiều bạn tình càng có nguy cơ nhiễm bệnh liên quan đến tình dục.
+ Sử dụng bao cao su đúng cách mỗi lần quan hệ tình dục.
- Khám phụ khoa: định kỳ 6 tháng 1 lần tại các cơ sở y tế chuyên khoa.

- Khi có những bất thường như thay đổi trong kích cỡ, màu sắc, có những vết chàm hay vết bớt ở vùng âm hộ; ngứa rát và đau xung quanh âm hộ; xuất hiện u cục hay mụn rộp nổi lên trên da; chảy máu bất thường; khí hư nhiều; đau rát khi tiểu tiện hay xuất hiện khối u ở vùng âm hộ thì nhất thiết cần được kiểm tra và điều trị triệt để bởi thầy thuốc chuyên khoa.
Xem thêm ung thư âm hộ: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-am-ho.aspx

Dấu hiệu và triệu chứng nổi bật của ung thư âm hộ

Ung thư âm hộ là một loại ung thư xảy ra trên diện tích bề mặt ngoài của cơ quan sinh dục nữ. Âm hộ là vùng da bao quanh niệu đạo và âm đạo, bao gồm âm vật và môi nhỏ.
Các hình thức ung thư âm hộ thường như một khối u hoặc đau ở âm hộ là nguyên nhân gây ngứa và đau đớn. Mặc dù nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, ung thư âm hộ thường được chẩn đoán ở phụ nữ lớn tuổi.
Điều trị ung thư âm hộ thường liên quan đến phẫu thuật để loại bỏ ung thư và lề mô khỏe mạnh. Đôi khi phẫu thuật ung thư âm hộ yêu cầu loại bỏ toàn bộ âm hộ. Bệnh ung thư âm hộ được chẩn đoán trước đó, phẫu thuật ít có khả năng mở rộng là cần thiết để điều trị.
Các triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư âm hộ có thể bao gồm:
Ngứa mà không hết.
Đau.
Chảy máu không phải do kinh nguyệt.
Da thay đổi, chẳng hạn như thay đổi màu sắc hoặc sự dày lên.
U, bướu giống như mụn cơm hay đau loét.
Thực hiện một cuộc hẹn với bác sĩ phụ khoa nếu gặp bất kỳ dấu hiệu âm hộ hoặc triệu chứng lo lắng, chẳng hạn như:
Chảy máu bất thường.
Nóng rát.
Ngứa.

Đau.
Các loại ung thư âm hộ
Các loại tế bào trong đó bắt đầu ung thư âm hộ giúp bác sĩ đưa ra kế hoạch điều trị hiệu quả nhất. Các loại phổ biến nhất của ung thư âm hộ bao gồm:
Ung thư tế bào vảy âm hộ. Ung thư này bắt đầu trong tế bào mỏng, dòng bề mặt âm hộ. Hầu hết bệnh ung thư âm hộ là ung thư tế bào vảy.
U ác tính âm hộ. Ung thư này bắt đầu trong sản xuất tế bào sắc tố được tìm thấy trong da của âm hộ.

Nguyên nhân, triệu chứng của ung thư âm hộ

Ung thư âm hộ là ung thư bộ phận sinh dục ngoài hệ thống sinh sản của phụ nữ. Bệnh không phổ biến, chiếm khoảng 3-4% trong số những bệnh ung thư phụ khoa và đứng thứ tư trong số những ung thư đường sinh dục, sau ung thư nội mạc tử cung, cổ tử cung, buồng trứng. Lứa tuổi trung bình mắc bệnh là khoảng 63 tuổi và 75% bệnh nhân trên 50 tuổi, 15% gặp ở phụ nữ dưới 40 tuổi.
Triệu chứng của bệnh
Các triệu chứng của ung thư âm hộ một cách mơ hồ hoặc có biểu hiện kích thích như ngứa. Đau khi có tổn thương gần âm vật hoặc niệu đạo, gây nên khó chịu khi tiểu tiện. Nhiễm trùng bội nhiễm của khối u ác tính cũng gây đau và tiết dịch. Khám lâm sàng có thể thấy tổn thương khối u, loét, chảy máu. Khoảng 5% có hạch ở bẹn hoặc bị áp xe hóa.
Nguyên nhân gây bệnh
Hiện tại vẫn chưa xác định được nguyên nhân nhân chính xác gây bệnh, nhưng những yếu tố có liên quan có thể đưa ra như:
Những khối u biểu mô bên trong biến chuyển thành yếu tố tiền ung thư trong da âm hộ. Ở vùng bị khối u biểu mô có thể sưng lên với vùng da dày và đỏ, với những vết đốm có màu trắng nhợt hơn hoặc sẫm hơn.
Virus gây u nhú HPV được nghĩ như một nguyên nhân gây bệnh, khoảng từ 3-5/10 trường hợp ung thư âm hộ có nguyên nhân từ virus HPV.
Do một số chất khử mùi, xà phòng thơm, chất xịt vệ sinh có chứa những chất hóa học gây ung thư.
Sử dụng nước để vệ sinh không sạch tạo nên tác nhân kích thích gây ngứa gãi. Những người âm hộ dễ bị ẩm ướt như mắc bệnh són đái, mặc quần áo lót có chất nhuộm hay bằng vải tổng hợp gây kích thích, mặc quần áo lót bó sát gây nên hạn chế thông thoáng khí cũng chính là nguyên nhân gây bệnh.
Ngoài ra, trong những tài liệu y văn cổ, người ta nhận thấy có khoảng 30-50% bệnh nhân ung thư âm hộ có mắc bệnh giang mai, bệnh u hạt hay hoa liễu cũng hay gặp.

Phòng ngừa bệnh
Các bác sĩ Bệnh viện Ung Bướu Hưng Việt cho biết, để ngăn chặn hay phòng ngừa ung thư nói chung và ung thư bộ âm hộ nói riêng, tốt nhất vẫn là cảnh giác với ung thư bằng cách đi khám phụ khoa định kỳ, 6 tháng một lần tại các cơ sở y tế chuyên khoa hay da liễu. Hoặc khi có những bất thường như thay đổi trong kích cỡ, màu sắc, hay là bề mặt của vết chàm hay vết bớt ở vùng âm hộ ngứa rát và đau xung quanh âm hộ; xuất hiện u cục hay mụn rộp nổi lên rất rõ trên da, chảy máu bất thường hay khí hư nhiều, đau rát khi tiểu tiện, vết thương, chỗ sưng hay khối u ở vùng âm hộ thì nhất thiết cần được điều trị triệt để bởi thầy thuốc chuyên khoa.

Những triệu chứng nhận biết ung thư âm hộ.

Ung thư âm hộ là ung thư mà bắt đầu ở trong âm môn, sau đó ảnh hưởng đến môi âm hộ, các nếp gấp da bên ngoài âm đạo. 
Trong một số trường hợp, ung thư âm hộ có thể bắt đầu vào âm vật hoặc trong các tuyến ở hai bên âm đạo. Nếu phát hiện sớm, điều trị ung thư âm hộ có khả năng thành công cao. 
Chính vì vậy, nhận biết được các triệu chứng của bệnh là việc vô cùng quan trọng. Hãy cùng đọc qua những thông tin dưới đây để phát hiện và có hướng thăm khám, điều trị sớm nếu mắc bệnh nhé!
1. Những đối tượng có nguy cơ bị ung thư âm hộ cao
- Nhiễm virus HPV gây u nhú ở người: Đây được coi là nguyên nhân của nhiều bệnh ung thư, trong đó có ung thư âm đạo và ung thư âm hộ. Nếu bạn đã từng nhiễm virus HPV hãy hình thành thói quen làm xét nghiệm thường xuyên. 
Đồng thời, chữa trị theo đúng hướng dẫn và liệu trình của bác sĩ, có thể chích ngừa vacxin giúp ngăn ngừa các bệnh ung thư liên quan đến virus HPV.
- Nếu bạn hút thuốc, bạn cũng có nguy cơ cao mắc ung thư âm hộ.
- Bệnh nhân nhiễm HIV có hệ miễn dịch suy yếu cũng có thể bị ung thư âm hộ tấn công.
- Nếu bạn đã bị ung thư cổ tử cung hoặc tiền ung thư cổ tử cung, hãy cảnh giác hơn với ung thư âm hộ.
- Nếu bạn dùng thuốc có steroid nhằm giảm và biến chất béo trong cơ thể thành cơ bắp, tăng độ dẻo dai khi tập luyện cũng có thể tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư âm hộ. Steroid có rất nhiều tác dụng phụ nguy hại cho sức khỏe của bạn. Hãy cảnh giác và tham khảo ý kiến bác sỹ trước khi sử dụng loại thuốc này.
- Phụ nữ có kinh muộn (15-18 tuổi) và mãn kinh sớm (40 tuổi) cũng thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc ung thư âm đạo.
- Ngứa dai dẳng vùng âm hộ (chủ yếu và môi ngoài và môi trong).
- Thay đổi về màu sắc: âm hộ bỗng nhiên trắng hoặc đỏ hơn bình thường.
- Vùng da của âm hộ thay đổi bất thường: phát ban, nổi mẩn, nốt ruồi, lốm đốm màu hoặc mụn cóc xuất hiện.
- Âm hộ bị vết loét đau, ngứa chữa mãi không khỏi.
- Đau rát khi tiểu tiện và quan hệ tình dục. Thậm chí lúc bình thường cũng có cảm giác đau.
- Sưng hạch bạch huyết ở vùng háng.
- Xuất hiện mùi không bình thường ở âm đạo.
3. Bạn vẫn có thể bị bệnh khi không ở nhóm nguy cơ cao
Ngay cả khi bạn không phải là đối tượng thuộc nhóm nguy cơ cao, bạn vẫn cần cảnh giác với bệnh ung thư âm hộ. Việc mà chị em cần làm là chú ý đến những sự thay đổi bất thường trên cơ thể, đặc biệt là bộ phận sinh dục của mình.
Khi bộ phận sinh dục xuất hiện những dấu hiệu lạ, đừng ngại ngần đến gặp bác sỹ để được thăm khám và làm các xét nghiệm cơ bản để phát hiện bệnh.
Những xét nghiệm cần thiết khi nghi ngờ ung thư âm hộ:
- Sinh thiết tế bào.
- Chụp CT hay MRI xương chậu để tìm lây lan bệnh ung thư.
- Xét nghiệm khung xương chậu để tìm thay đổi ở da.
Sau khi làm các xét nghiệm, bác sỹ sẽ cho biết bạn có mắc bệnh hay không. Nếu mắc bệnh và được phát hiện ở giai đoạn sớm, khả năng chữa bệnh thành công là khá cao. Chị em không nên hoang mang, lo lắng, hãy làm đúng theo phác đồ điều trị của bác sỹ là được.
Xem thêm về Ung thư dương vật tại Bệnh viện ung bướu Hưng Việt.

Thứ Năm, 15 tháng 1, 2015

Triệu Chứng Của Ung Thư Dương Vật

Ung thư dương vật có các biểu hiện lâm sàng rất khác nhau, từ tổn thương có vẻ lành tính tới ung thư biểu mô xâm lấn kèm với rụng dương vật. Có sự khác biệt lớn như vậy một phần là do người ta thường đến khám muộn. Khoảng thời gian từ lúc bệnh nhân bắt đầu nhận thấy tổn thương cho tới khi người bệnh đến khám bác sĩ trung bình là 10 tháng và đến một nửa số bệnh nhân này có thể có tổn thương trên một năm trước khi đến khám bác sĩ.
Dấu hiệu và Triệu chứng của tổn thương nguyên phát
Trong một báo cáo tổng quan của trên 4000 bệnh nhân ung thư dương vật, 47% có u, cục hoặc nhân ở dương vật; 35% bị đau hoặc loét và 17% bị tổn thương viêm. Khi đến khám, 43% tổn thương có kích thước < 2cm và 57% có tổn thương với kích thước lớn hơn. Trong nghiên cứu thứ hai, 48% các trường hợp có tổn thương quy đầu, thứ tự tiếp đó là tổn thương bao quy đầu (21%), tổn thương cả quy đầu và bao quy đầu (9%) tổn thương vành quy đầu (6%) và tổn thương thân dương vật (< 2%); trong 14% các trường hợp, ung thư đã xâm lấn vào trong thân dương vật từ các vị trí ở xa hơn.
Ung thư dương vật có cả dạng nhú và dạng phẳng. u nhú thường phát triển từ một tổn thương dạng hạt cơm lồi ở quy đầu và da quy đầu, tổn thương này về sau có thể rộng ra và kết hợp lại tạo thành một khối u dạng nấm kèm hoại tử và huỷ hoại dương vật. Ngược lại, u phẳng thường xâm lấn vào các cấu trúc sâu hơn của dương vật, đồng thời lan rộng ra hai bên lên bề mặt dương vật làm cho bề mặt thay đổi chút ít. Các tổn thương này thường là vết loét hình tròn, nông và nhỏ trên nền hơi lồi. Cả hai loại tổn thương đều có thể dẫn tới tình trạng nhiễm khuẩn thứ phát và thường rỉ mủ có mùi hôi.
Trong giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể thấy ngứa và nóng rát ở dưới bao quy đầu và chỉ hơi bị đau vì bệnh ít khi gây hủy hoại lan rộng vào mô. Các triệu chứng ung thư dương vật thường gặp như giảm cân và mệt mỏi có thể đi kèm sự tiến triển bệnh. Chảy máu, rò niệu đạo và tác niệu đạo là các biến chứng muộn báo hiệu bệnh đã lan rộng; đây là các dấu hiệu hiếm khi xuất hiện. Trong các trường hợp nghiêm trọng, khối u có thể chiếm toàn bộ dương vật hoặc dương vật có thể rụng.

Các yếu tố khách quan gây ung thư dương vật

Ung thư dương vật – cái tên chỉ mới nhắc đến thôi đã gây nên biết bao nỗi ám ảnh và sợ hãi đối với các đấng mày râu. Bên cạnh những yếu tố như độ tuổi, hút thuốc lá, cắt bao quy đầu lúc mới sinh, hẹp bao quy đầu và nhiễm virút papilloma người (HPV), có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật thì các yếu tố khác như quan hệ tình dục bừa bãi, dương vật bị tổn thương, nhiễm HIV .. cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển bệnh ung thư dương vật.
Liệu pháp PUVA
Tiền sử sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím và psoralen (PUVA) có liên quan tới sự phát triển ung thư dương vật về sau.
Quan hệ tình dục bừa bãi
Quan hệ tình dục bừa bãi có thể thúc đẩy quá trình phát triển ung thư dương vật. Trong một nghiên cứu, nam giới có hơn 30 bạn tình trong cả cuộc đời có nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao hơn những người có một đến bốn hoặc năm đến 29 bạn tình (tương ứng gấp 3,4 và 2,6 lần). Tuy nhiên, tần suất nhiễm HPV cao hơn ở những người có quan hệ tình dục bừa bãi có thể giải thích cho mối liên hệ này.
Tổn thương dương vật
Trong một thông báo, nguy cơ phát triển  ung thư dương vật ở những người bị các vết rách nhỏ hoặc xây xước dương vật tăng 3,9 lần so với người không có các tổn thương này.
Chủng tộc và tiền sử gia đình
Mối liên hệ giữa chủng tộc và ung thư dương vật hiện còn đang bị nghi ngờ. Theo một nghiên cứu, người Mỹ gốc Phi có nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao gấp hai lần người da trắng, nhưng các nghiên cứu khác lại không thấy sự khác biệt này. Một hội chứng gia đình hiếm gặp cũng đã được mô tả.
Nhiễm HIV
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV và ung thư dương vật chưa rõ ràng. Chỉ có một số ít trường hợp bị ung thư dương vật trong số những người nhiễm HIV được công bố, thường là ở các trường hợp có nhiễm HPV. Tần suất mắc ung thư dương vật thấp khi bị nhiễm HIV khiến cho người ta ngạc nhiên vì các loại ung thư hậu môn-sinh dục liên quan tới HPV khác tăng lên khi bị nhiễm HIV.
Các tổn thương dương vật tiền ung thư
Một số tổn thương dương vật hiện nay được coi là tiền ung thư do có khả năng thúc đẩy hoặc phát triển trực tiếp thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Các tổn thương này bao gồm viêm quy đầu khô tắc (BXO), bạch sản, sừng hóa da quy đầu, sùi mào gà, condilom Buschke-Lowenstein khổng lồ, viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB) và ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) gồm các thể bệnh Bowen (BD), hồng sản Querat (EQ) và sẩn dạng Bowen (PB).
Không xác định được phạm vi của tổn thương có trước khi hình thành  ung thư dương vật xâm lấn; các bằng chứng hiện có gợi ý đa số các trường hợp ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật phát triển tự nhiên. Ví dụ, trong một nghiên cứu, chỉ có 39 người (8%) trong số 511 bệnh nhân ung thư dương vật có tổn thương dương vật trước đó hoặc có tổn thương đồng thời. Tuy nhiên, trong nghiên cứu thứ hai, 19 (42%) trong số 45 bệnh nhân công bố có tổn thương từ trước. Do đó, vai trò chính xác của tổn thương dương vật có từ trước đối với quá trình hình thành ung thư còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Viêm bao quy đầu khô tắc
BXO là một căn bệnh ở vùng sinh dục tương tự lichen thể xơ hóa và teo đét, được đặc trưng bởi các mảng trắng ở quy đầu hoặc ở bao quy đầu. Các mảng trắng này cuối cùng to lên và kết hợp thành khối u xơ cứng gây dính, hẹp bao quy đầu và chít hẹp miệng sáo. Mặc dù thường được coi là lành tính nhưng BXO có liên quan tới ung thư biểu mô tế bào vẩy ở khoảng hơn chục trường hợp, không có ai trong số này được cắt bao quy đầu lúc mới sinh. Trong một nghiên cứu có 86 bệnh nhân bị lichen xơ cứng vùng sinh dục, các biểu hiện mô học tiền ung thư hoặc ung thư phát triển ở 5 bệnh nhân (6%), 4 trong 5 bệnh nhân này có nhiễm HPV.
Khoảng thời gian trung bình từ lúc lichen xơ cứng khởi phát cho tới khi phát triển ung thư dương vật là 17 năm (dao động từ 10 đến 23 năm).
Bạch sản
Tình trạng kích thích hoặc viêm mạn tính được coi là đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bạch sản, đó là một tình trạng bệnh hiếm gặp thường có một hoặc nhiều mảng trắng dạng vẩy ở miệng sáo. Mặc dù mối liên quan chính xác với bệnh ung thư dương vật chưa được xác định rõ nhưng bạch sản thường được phát hiện ở gần hoặc sát vùng có ung thư biểu mô tế bào vẩy. Bản chất tiền ung thư của bạch sản được gợi ý do có biểu hiện loạn sản ở 10 - 20% các trường hợp nếu để bệnh tiến triển tới mức độ loét, xước hoặc nứt.
Sừng hóa da quy đầu
Sừng hóa da quy đầu là một tổn thương dày sừng lồi được tạo thành do sự quá phát và sừng hóa biểu mô. Sừng hóa da thường được tạo thành trên bề mặt của tổn thương có từ trước như mụn ruồi, hạt cơm hoặc vết trầy xước và chúng được coi là một đáp ứng với tình trạng viêm bao quy đầu mạn tính. Sự thoái hóa ác tính đã được ghi nhận ở một số trường hợp bệnh tái phát và hiếm khi sừng hóa phát triển hoặc tạo thành từ ung thư xâm lấn.
Sùi mào gà
Sùi mào gà hay còn gọi là mụn cơm sinh dục là các u nhú, mềm đi kèm tình trạng nhiễm HPV. Mặc dù u sùi thường có diễn biến lành tính nhưng cũng có thể chuyển dạng ác tính, đặc biệt khi đi kèm với một số dưới tuýp HPV nhất định (16, 18, 31, 33, 35 và 39). Tần suất mắc ung thư dương vật tăng ở những người có sùi mào gà được minh họa trong một nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng trên 110 bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người làm chứng, trong đó nguy cơ ung thư dương vật ở người có tiền sử u sùi mào gà cao hơn 5,9 lần so với người không có u sùi.
Condyloma Buschke-Lowenstein khổng lồ (ung thư biếu mô dạng hạt cơm)
Đây thường là u lồi trông giống súp lơ ở quy đầu và bao quy đầu của dương vật và là một dạng ung thư biểu mô tế bào vẩy hậu môn-sinh dục biệt hóa cao, chiếm khoảng 5 - 24% các trường hợp ung thư dương vật tuỳ thuộc vào nhóm đối tượng được nghiên cứu. HPV được cho là có liên quan tới sinh bệnh học của ung thư biểu mô dạng hạt cơm; HPV dưới tuýp 6 và 11 thường được phân lập và dưới tuýp 16 và 18 có liên quan tới sự phát triển xâm lấn.
Ung thư biểu mô dạng hạt cơm có tiên lượng tốt hơn các ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật khác. Trong một nghiên cứu so sánh 60 trường hợp ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật và 11 trường hợp ung thư biểu mô dạng hạt cơm, ung thư biểu mô dạng hạt cơm có khả năng di căn hạch thấp hơn (18% so với 57%) và tỷ lệ sống sót sau năm năm cao hơn (100% so với 60%). Ung thư biểu mô dạng hạt cơm còn có tần suất kết hợp với HPV ADN cao hơn (46% so với 27%).
Viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)
PKMB là một tổn thương ít gặp, biểu hiện lâm sàng là một mảng đơn độc màu trắng dày sừng phân thành lớp ở quy đầu; nó thường xuất hiện ở người cao tuổi và được cắt bao quy đầu muộn. Nguyên nhân chính xác gây ra căn bệnh này vẫn chưa được xác định rõ, sự chuyển dạng ác tính PKMB thành ung thư biểu mô tế bào vẩy đã được công bố; dấu hiệu chuyển dạng là sự phát triển một tổn thương lồi dạng nhân trong mảng trắng tồn tại từ trước.
Bệnh Bowen
Bệnh Bowen (BD) là một ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) trong biểu mô sinh nang, ví dụ trên thân dương vật. Nó thường là đám đỏ nhạt đơn độc với các vùng có vỏ cứng và rỉ nước. Trong một nghiên cứu, HPV-16 có ở 4 trong 5 tiêu bản sinh thiết BD sinh dục. Nếu không điều trị, ung thư biểu mô tế bào vẩy sẽ phát triển ở khoảng 5% các trường hợp.
Hồng sản Querat
Hồng sản Querat (EQ) là một loại  ung thư biểu mô nông tại chỗ phát triển trong lớp biểu mô niêm mạc-da của dương vật tức là quy đầu và bao quy đầu. Nó thường có màu đỏ nhung, ranh giới rõ. Các tổn thương này thường đơn độc và đôi khi bị xước hoặc bị loét nhưng ít khi bị đau. EQ thường gặp ở người cao tuổi và không cắt bao quy đầu. Nó có xu hướng thoái hóa thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn cao hơn so với bệnh Bowen; tần suất chuyển dạng ác tính dao động trong khoảng 10 - 33%. Sự phát triển loét và/hoặc u nhú có liên quan tới sự tiến triển của bệnh. Người ta đã mô tả mối liên hệ của bệnh với HPV 8 và 16.
Sẩn dạng Bowen
Sẩn dạng Bowen (BP) là dạng ung thư biểu mô nông tại chỗ thứ ba, được đặc trưng bởi nhiều mụn sẩn hơi lồi có màu từ đỏ tới tím. Các mụn này thường tạo thành trên thân dương vật mặc dù quy đầu và bao quy đầu cũng có thể bị tổn thương. Người ta cho là HPV có liên quan đến sinh bệnh học của sẩn dạng Bowen. Diễn biến lâm sàng của sẩn dạng Bowen thường là lành tính, nhưng cũng đã có một số ít trường hợp tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Tuổi cao và tình trạng ức chế miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ tiến triển.

Yếu tô nguy cơ gây nên ung thư dương vật

Hiện đã có các bằng chứng thuyết phục cho thấy các yếu tố như độ tuổi, hút thuốc lá, cắt bao quy đầu lúc mới sinh, hẹp bao quy đầu và nhiễm virút papilloma người (HPV), có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật. Các yếu tố nguy cơ có thể khác bao gồm tiền sử có sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím (PUVA), có nhiều bạn tình, tiền sử rách hoặc xước dương vật, các yếu tố di truyền và chủng tộc.

Độ tuổi
Tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật.  Bệnh ung thư dương vật hiếm gặp trước tuổi dậy thì, tần suất mắc bệnh bắt đầu tăng ở tuổi trưởng thành và sau đó tiếp tục tăng. Trong một nghiên cứu trên 4000 trường hợp, độ tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh là 60 tuổi.
Hút thuốc lá
Những người hút thuốc lá có nguy cơ ung thư dương vật cao hơn. Trong một nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng, người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh cao gấp ba lần so với người không hút thuốc. Lượng thuốc lá sử dụng liên quan tới ung thư dương vật là một yếu tố độc lập, không phụ thuộc vào các yếu tố khác như tiền sử tình dục.
Người ta cho rằng khói thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ phát triển  ung thư dương vật qua việc ức chế chức năng các tế bào Langerhans trình diện kháng nguyên, hậu quả là gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống cảnh báo miễn dịch. Một số khác lại cho rằng tình trạng nhiễm HPV, kích thích dương vật mạn tính hoặc hẹp bao quy đầu có thể có tác dụng hiệp đồng với hút thuốc lá để thúc đẩy quá trình chuyển dạng ác tính. Mặc dù có bằng chứng cho thấy các chất gây ung thư trong thuốc lá tập trung ở bựa sinh dục, việc điều trị hẹp bao quy đầu đơn độc không loại bỏ được nguy cơ do hút thuốc gây ra.
Không cắt bao quy đầu
Tác dụng có lợi của việc cắt bao quy đầu lúc mới sinh đối với sự phát triển   ung thư dương vật đã được đánh giá cao từ lâu. Dưới đây là các số liệu chứng minh: Ung thư dương vật hầu như không tồn tại ở cộng đồng người Do thái và người theo đạo Hồi, là những người có tục lệ cắt bao quy đầu cho nam giới khi mới sinh.
Trong một nghiên cứu so sánh trực tiếp tiến hành ở Uganda, các bộ lạc có tục lệ cắt bao quy đầu có tỷ lệ ung thư dương vật là 0,5/100.000 nam giới, trong khi đó tỷ lệ này ở các bộ lạc không có tục lệ cắt bao quy đầu cao hơn gần sáu lần, tới 2,9/100.000 nam giới.
Với những người không cắt bao quy đầu, tỷ lệ phát triển  ung thư dương vật trong cả cuộc đời có thể lên tới 1/600, trong khi đó tỷ lệ trong cộng đồng chung là 0,2/100.000 nam giới. Trong một báo cáo tổng quan trên 50.000 trường hợp bị ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật, chỉ có 11 người được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, mặc dù một báo cáo tổng quan khác đưa ra con số đối lập, trong đó 20% bệnh nhân ung thư dương vật đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh.
Phần lớn tác dụng có lợi của cắt bao quy đầu mất đi nếu không được tiến hành khi còn là trẻ nhỏ. Trong một nghiên cứu có đối chứng bao gồm 110 bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người đối chứng, so với những người đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, nguy cơ ung thư dương vật tương đối ở đối tượng không cắt bao quy đầu và đối tượng cắt bao quy đầu sau giai đoạn sơ sinh tương ứng là 3,0 và 3,2. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết là tác dụng bảo vệ của việc cắt bao quy đầu xuất phát từ việc không tồn đọng bựa sinh dục và không bị hẹp bao quy đầu về sau khi dương vật bị kích thích mạn tính, đặc biệt là khi vệ sinh cá nhân không tốt. Hiện vẫn chưa xác định được mối liên hệ giữa việc cắt bao quy đầu và nguy cơ lây nhiễm hoặc lan truyền HPV.

Bựa sinh dục
Bựa sinh dục bắt đầu hình thành vào những ngày đầu tiên của cuộc sống do bong tế bào biểu mô trong bao quy đầu; dịch bài tiết từ các tuyến bao quy đầu cũng đóng góp một phần. Bựa sinh dục có khả năng gây ung thư ở các mô hình nghiên cứu trên súc vật, mặc dù thành phần đặc hiệu gây chuyển dạng ác tính ở nam giới chưa được xác định. Vi khuẩn Mycobaterium có trong bao quy đầu ở khoảng một nửa đối tượng không cắt bao quy đầu, có thể chuyển đổi sterol trong bựa sinh dục thành hợp chất gây ung thư. Ở nam giới không cắt bao quy đầu, sự tồn đọng bựa sinh dục, đặc biệt là khi bị hẹp bao quy đầu, có thể thúc đẩy quá trình chuyển dạng ác tính do sự tiếp xúc trực tiếp với biểu mô bị kích thích mạn tính.
Hẹp bao quy đầu
Hẹp bao quy đầu khiến cho bao quy đầu không thể co lại được, là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Theo một báo cáo tổng quan các nghiên cứu có đối chứng đã công bố, hẹp bao quy đầu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư dương vật nói chung lên hơn 10 lần. Hẹp bao quy đầu là một bất thường hay đi kèm với ung thư dương vật nhất và nó liên quan tới tình trạng không biệt hóa biểu mô. Trong một thông báo, xét nghiệm mô học bao quy đầu ở nam giới cho thấy tỷ lệ có tình trạng không biệt hóa biểu mô ở nam giới có hẹp bao quy đầu là 35%, còn tỷ lệ đó ở nam giới không bị hẹp bao quy đầu là 0%. Tình trạng tồn đọng bựa sinh dục mạn tính, xảy ra khi vệ sinh cá nhân không tốt, có thể thúc đẩy quá trình hình thành chứng hẹp bao quy đầu.
Nhiễm virút papilloma người
Giống như các loại ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng hậu môn-sinh dục khác, tình trạng nhiễm virút papilloma người (HPV) liên quan chặt chẽ với ung thư dương vật và có thể là nguyên nhân gây ra loại ung thư này.
Tần suất nhiễm HPV ở bệnh nhân ung thư dương vật dao động từ 27% tới 71%; hầu hết các trường hợp có liên quan tới dưới tuýp 16 hoặc 18. Trái lại, tần suất nhiễm HPV ước tính trong bao quy đầu của đối tượng khỏe mạnh không bị ung thư dương vật và ở trẻ mới sinh tương ứng là o - 6% và 4%. Tình trạng nhiễm HPV dường như không ảnh hưởng tới tiên lượng của bệnh nhân ung thư dương vật.

Tìm hiểu về ung thư dương vật

Ung thư dương vật là ung thư ác tính thường thấy ở hệ thống sinh dục nam ở độ tuổi trên 40. Ung thư dương vật chủ yếu phát sinh ở nam giới trung, cao tuổi, độ tuổi thường là 60, tuổi tác càng cao thì càng dễ mắc bệnh, tỉ lệ mắc cao nhất là 70 tuổi. Tuy nhiên ung thư dương vật cũng có thể phát bệnh ở người trẻ tuổi.
95% các trường hợp ung thư dương vật là ung thư biểu mô tế bào vẩy (SCC) nguyên phát. Các tuýp mô học khác bao gồm sác-côm mô mềm nguyên phát, u niệu đạo, ung thư biểu mô tế bào vẩy, u lymphô, ung thư biểu mô tế bào đáy và ung thư dương vật di căn thứ phát là các dạng ung thư dương vật hiếm gặp.
Nguyên nhân:
- Do hẹp bao quy đầu: vì người bệnh hẹp bao quy đầu thường gặp khó khăn trong việc vệ sinh quy đầu khiến các chất dịch và chất cặn màu trắng tích trữ trong đó dễ khiến mắc bệnh ung thư dương vật.
- Bựa sinh dục, tình trạng hình thành lớp chất nhầy khá dày, xảy ra do dương vật không được vệ sinh sạch sẽ cũng được xem là một trong những nguyên nhân gây ung thư dương vật.
- Do mắc các bệnh như viêm dương vật (đặc biệt là vùng quy đầu và rãnh quy đầu), có các khối u lành tính ở dương vật (như u mạch máu), các bệnh lây truyền qua đường tình dục (như bệnh sùi mào gà, giang mai …) cũng là những yếu tố có thể dẫn đến ung thư dương vật.
Triệu chứng:
+ Giai đoạn 1: Khi mới bắt đầu mắc bệnh biểu hiện của bệnh ung thư dương vật sẽ là:
- Thay đổi màu da ở bộ phận dương vật.
- Có cảm giác đau nhói hay âm ỉ ở dương vật, nhất là sau khi dương vật cương cứng hoặc bị va chạm.
- Bao qui đầu không thể di chuyển lên được,có u cục hoặc cảm giác có nốt, toàn bộ cảm giác đau; sẩn, nổi mụn cóc, loét giống như hình hoa lơ, sau đó sẽ là loét rộng hơn, vùng rìa phát triển không đồng nhất, sẽ có những cơn đau nhói, và cảm giác đau nóng rát, có tiết dịch mùi hôi.
- Rỉ máu ở đầu dương vật, nhất là sau khi giao hợp.
+ Giai đoạn 2: bệnh ung thư sẽ tấn công vào các tuyến và tế bào bên trong, với biểu hiện:
- Các nốt to lên, loét cũng to lên, sâu thêm, xuất hiện bao qui đầu mỏng căng, sáng hơn.
- Có u hoặc các nốt loét xung quanh bao qui đầu. Dần dần các u sẽ làm vỡ các phần da hoặc hoại tử trên một nền cứng và xuất hiện nhìn giống như các bông hoa lơ, khi nắn có nước nhờn, đục, có tiết dịch mủ mùi hôi.
+ Giai đoạn 3: bắt đầu bằng việc tế bào ung thư lan sang các hạch bạch huyết và hạch háng:
- Hạch bẹn to cứng, không đau, thường thấy ở cả 2 bên.
Giai đoạn cuối: bệnh ung thư sẽ lan rộng ra khắp dương vật và những khu vực khác xa hơn, với biểu biện:
- Người gầy, nôn ra máu, không muốn ăn.
Ung thư dương vật có nguy hiểm gì?
Vài năm gần đây, ung thư dương vật trở thành một trong những bệnh nguy hiểm tới sức khỏe và tính mạng của nam giới,mà nam giới không nên coi nhẹ.nguyên nhân gây bệnh đến nay vẫn không rõ, theo quan sát lâm sàng và thống kê cho thấy, khả năng ung thư dương vật phát bệnh và hẹp bao quy đầu hay thừa bao quy đầu có liên quan mật thiết với nhau.
Có nhiều bệnh về dương vật dễ trở thành ung thư trước đó như: u nhú dương vật, sùi mào gà, chứng bạch sản dương vật, tăng hồng sản bộ phận sinh dục. Đầu dương vật của bệnh nhân bỗng nhiên có u không lí do, không đau, không ngứa, u không ngừng phát triển, giống như hoa trà,xuất hiện ở bề mặt dương vật, khiến cho dương vật bị biến dạng. Hơn nữa bề mặt khối u còn bị loét, có mùi và dịch. Tùy theo bệnh tình phát triển, xuất hiện thêm hạch gần khôi su dương vật, sau đó sẽ di căn tới gan, phổi, thậm chí đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Phương pháp điều trị ung thư dương vật
Tại bệnh viện ung bướu Hưng Việt tùy vào tình trạng bệnh, sức khỏe để đưa ra phác đồ điều trị tổng hợp cho cá thể hóa, thông qua thực tiễn, điều trị tổng hợp sẽ phá vỡ được những hạn chế của phương pháp đơn lẻ, nâng cao hiệu quả điều trị.

Chẩn đoán ung thư cổ tử cung bằng phương pháp xét nghiệm Liqui-Prep Pap Test

Nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán sớm bệnh ung thư cổ tử cung, có xét nghiệm phát hiện sớm ung thư cổ tử cung Liqui-Prep Pap Test vào phục vụ chẩn đoán ung thư cổ tử cung.
Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư phụ khoa thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi 35 trở lên. Trên thế giới, cứ 2 phút lại có một phụ nữ chết do ung thư cổ tử cung. Tại Việt Nam, ước tính cứ 100.000 phụ nữ thì có 20 trường hợp mắc bệnh UTCTC và 11 trường hợp tử vong. Một số lý do dẫn đến tỉ lệ mắc bệnh ung thư cổ tử cung cao bao gồm số phụ nữ tham gia khám phụ khoa định kỳ để được tầm soát ung thư còn thấp, các chương trình tầm soát cũng chưa được bao phủ rộng, ý thức phòng bệnh ung thư cổ tử cung ở phụ nữ còn hạn chế do thiếu những chương trình tuyên truyền giáo dục.
Ung thư cổ tử cung có thể xảy ra với bất kỳ ai và đặc biệt, bệnh thường gặp ở phụ nữ ở 35 – 40 tuổi trở đi. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ lứa tuổi 15 – 44 Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời của một người phụ nữ với nhiều thiên chức lớn lao: làm vợ, làm mẹ, là người chăm sóc gia đình và hơn thế nữa, ở độ tuổi này phụ nữ cũng đồng thời đã tạo dựng được sự nghiệp của mình.Nhiễm virus Human papillomavirus (HPV) được xác định là nguyên nhân cần thiết gây Ung thư cổ tử cung có thể xảy ra với bất kỳ ai và đặc biệt, bệnh thường gặp ở phụ nữ ở 35 – 40 tuổi trở đi. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung là ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ lứa tuổi 15 – 44 Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời của một người phụ nữ với nhiều thiên chức lớn lao: làm vợ, làm mẹ, là người chăm sóc gia đình và hơn thế nữa, ở độ tuổi này phụ nữ cũng đồng thời đã tạo dựng được sự nghiệp của mình.Nhiễm virus Human papillomavirus (HPV) được xác định là nguyên nhân cần thiết gây ung thư cổ tử cung. Một số yếu tố được xem là tăng nguy cơ nhiễm HPV và phát triển ung thư cổ tử cung như phụ nữ có quan hệ tình dục sớm (trước 18 tuổi) hoặc quan hệ với nhiều người; dùng thuốc tránh thai kéo dài; sinh đẻ nhiều (từ trên 4 lần); hút thuốc lá; tình trạng suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV, mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là viêm sinh dục do nhiễm Trichomonas, Chlamydia trachomatis, Herpes simplex virus type 2 (HSV2)…Với những tiến bộ của y khoa hiện đại, căn bệnh này có thể được chữa khỏi nếu bệnh được phát hiện sớm. Tuy nhiên ở giai đoạn muộn ung thư cổ tử cung lại rất khó chữa. Kể từ khi xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung (xét nghiệm tế bào học cổ tử cung hay còn gọi là xét nghiệm Pap) ra đời và ứng dụng rộng rãi trong cộng đồng thì tỷ lệ ung thư cổ tử cung đã giảm một cách đáng kể.


Ung thư cổ tử cung không xảy ra đột ngột mà âm thầm trải qua các giai đoạn từ lúc nhiễm HPV, gây nên những biến đổi bất thường ở tế bào cổ tử cung, các tổn thương tiền ung thư rồi đến ung thư, kéo dài trung bình từ 10 – 15 năm. Đặc biệt giai đoạn tiền ung thư hầu như không có triệu chứng gì, do đó chị em không thể nhận biết mình mắc bệnh nếu không đi khám phụ khoa. Khi đã ở những giai đoạn muộn, bệnh nhân có thể có những biểu hiện như ra huyết trắng có mùi hôi, có lẫn máu, chảy máu âm đạo sau giao hợp hoặc sau khi làm việc nặng dù không đang ở chu kỳ kinh nguyệt. Nặng hơn có thể chảy dịch có lẫn máu ở âm đạo, kèm theo đau bụng, lưng, vùng chậu và chân. Nếu chị em thấy mình có bất kỳ dấu hiệu nào kể trên thì hãy đến gặp bác sĩ ngay. Không nên coi thường và bỏ qua những triệu chứng này. Khi các triệu chứng bị bỏ qua thì ung thư sẽ có thời gian để tiến triển đến những giai đoạn muộn hơn và việc điều trị sẽ càng khó khăn.
Tìm hiểu thêm về phương pháp chẩn đoán ung thư cổ tử cung tại : http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung/chan-doan-ung-thu-co-tu-cung.aspx

Chẩn đoán ung thư cổ tử cung qua các giai đoạn

Nếu gặp các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư cổ tử cung hoặc nếu một thử nghiệm Pap đã cho thấy tế bào ung thư, có thể trải qua các xét nghiệm để chẩn đoán ung thư hơn nữa. Để  chẩn đoán ung thư cổ tử cung, bác sĩ có thể:
Kiểm tra cổ tử cung. Trong một kiểm tra gọi là Soi cổ tử cung, bác sĩ sử dụng một kính hiển vi đặc biệt (colposcope) để kiểm tra cổ tử cung tìm các tế bào bất thường. Nếu các khu vực khác thường được xác định, bác sĩ có thể lấy một mẫu nhỏ các tế bào để phân tích (sinh thiết).
Lấy một mẫu tế bào cổ tử cung. Trong thủ tục sinh thiết bác sĩ loại bỏ một mẫu tế bào bất thường từ cổ tử cung bằng cách sử dụng các công cụ đặc biệt. Trong một loại sinh thiết, bác sĩ sử dụng một con dao tròn để loại bỏ một phần nhỏ cổ tử cung. Các loại khác đặc biệt của sinh thiết có thể được sử dụng tùy thuộc vào vị trí và kích thước vùng bất thường của tế bào.
Hủy bỏ một khu vực hình nón của các tế bào cổ tử cung.  Sinh thiết nón bởi vì nó liên quan đến việc tham gia một mẫu hình nón cổ tử cung, cho phép bác sĩ có được lớp sâu hơn của các tế bào cổ tử cung để thử nghiệm. Bác sĩ có thể sử dụng dao mổ, laser hoặc điện khí hóa dây thắt để loại bỏ các mô.
Chẩn đoán giai đoạn
Nếu bác sĩ xác định rằng bị  ung thư cổ tử cung, sẽ trải qua các xét nghiệm thêm để xác định xem bệnh ung thư đã lây lan và mức độ nào. Giai đoạn ung thư là một yếu tố quan trọng trong quyết định xử lý. Kiểm tra giai đoạn bao gồm:
Hình ảnh. Các xét nghiệm như X -quang, chụp cắt lớp vi tính (CT) và hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) giúp bác sĩ xác định xem bệnh ung thư đã lan tràn ra ngoài cổ tử cung.
Kiểm tra bàng quang và trực tràng. Bác sĩ có thể sử dụng kỹ thuật đặc biệt để xem bên trong bàng quang (soi bàng quang) và trực tràng.
Một giai đoạn ung thư, thường là một chữ số La Mã. Các giai đoạn của ung thư cổ tử cung bao gồm:
Giai đoạn 0. Cũng được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ hoặc ung thư xâm lấn, ung thư này sớm là nhỏ và giới hạn trong bề mặt cổ tử cung.
Giai đoạn I. Ung thư là giới hạn trong cổ tử cung.
Giai đoạn II. Ung thư ở giai đoạn này bao gồm cổ tử cung và tử cung, nhưng không lây lan vào thành khung chậu hoặc phần dưới của âm đạo.
Giai đoạn III. Ung thư ở giai đoạn này đã di chuyển vượt ra ngoài cổ tử cung và tử cung vào thành khung chậu hoặc phần dưới của âm đạo.
Giai đoạn IV. Ở giai đoạn này, ung thư đã lan đến các cơ quan gần đó, chẳng hạn như bàng quang hoặc trực tràng, hoặc nó đã lan rộng đến các vùng khác của cơ thể, như phổi, gan hoặc xương.