2014

Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Các yếu tố nguy cơ ung thư tử cung

Một số yếu tố nguy cơ phổ biến đối với bệnh ung thư tử cung bao gồm:

  • Tuổi: Hầu hết phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung là trên 50 tuổi và đã trải qua thời kỳ mãn kinh.
  • Số chu kỳ kinh nguyệt: Những phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt nhiều hơn có nguy cơ ung thư nội mạc tử cung tăng cao. Điều này bao gồm bắt đầu từ thời kỳ trước 12 tuổi và qua thời kỳ mãn kinh sau 50 tuổi.
  • Tình trạng sinh đẻ: Các nhà nghiên cứu vẫn đang điều tra tại sao mang thai dường như làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung của. Trong thời gian mang thai, cân bằng nội tiết tố ở phụ nữ chuyển hướng tới progesterone, làm giảm estrogen. Chu kỳ kinh nguyệt không đều và vô sinh cũng có thể liên quan đến sự mất cân bằng ở mức độ estrogen và progesterone, và sự mất cân bằng nội tiết tố này có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cho.

  • Béo phì: mô mỡ có xu hướng sản xuất các mức cao của estrogen, đặc biệt sau khi mãn kinh, mà những nơi cũ, phụ nữ thừa cân có nguy cơ cao đối với loại ung thư tử cung.
  • Tiền sử gia đình: Phụ nữ có tiền sử gia đình của nội mạc tử cung, đại tràng hoặc ung thư buồng trứng, bao gồm một hội chứng di truyền được gọi là ung thư đại trực tràng nonpolyposis di truyền (HNPCC), có thể có nguy cơ cao phát triển bệnh ung thư nội mạc tử cung.
  • Bệnh tiểu đường: nội mạc tử cung ung thư phổ biến hơn ở những phụ nữ có bệnh tiểu đường. Các bác sĩ cho rằng điều này có thể có để làm với tỷ lệ béo phì cao hơn được tìm thấy ở những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường type 2.
  • Complex tăng sản nội mạc tử cung không điển hình: tình trạng tiền ung thư này là tốc độ tăng trưởng tăng lên của niêm mạc tử cung và có thể trở thành ung thư nếu không được điều trị.
  • Các khối u buồng trứng và các hội chứng: Một số hội chứng buồng trứng, buồng trứng đa nang như Syndrome (PCOS), và các khối u buồng trứng có thể làm tăng nồng độ estrogen và làm tăng nguy cơ của một người phụ nữ phát triển loại ung thư cổ tử cung.
Xem thêm về ung thư cổ tử cung tại : http://benhvienungbuouhungviet.vn/

Ung thư vú nam - những điều cần biết

Ung thư vú nam là rất hiếm, nó xảy ra. Chỉ có 1% của tất cả các bệnh ung thư vú xảy ra ở nam giới. Đối với nam giới, khả năng mắc bệnh ung thư vú là khoảng 1 trong 1000.
Kết quả từ nghiên cứu lớn nhất từng được thực hiện trên bệnh ung thư vú của nam giới đã phát hiện ra rằng sự sống cho những người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú đã được cải thiện, nó đã không bắt kịp với những tiến bộ so với sự sống cho những phụ nữ bị ung thư vú. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng hầu hết các bệnh ung thư vú của nam giới là estrogen receptor dương.
Nghiên cứu được trình bày tại Hội nghị chuyên đề ung thư vú 2014 San Antonio.
Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã xem xét hồ sơ và khối u mẫu của 1.473 người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú và điều trị từ năm 1990 đến 2010 tại 23 trung tâm trong 9 quốc gia.
ung thu vu nam
"Mặc dù chúng tôi đã nhìn thấy một sự cải thiện đáng kể trong sự sống còn tổng thể cho bệnh nhân ung thư vú nam giới trong một thời gian, tiên lượng cho nam giới bị ung thư vú đã không được cải thiện nhiều như những phụ nữ có bệnh", bác sĩ Fatima Cardoso, MD, giám đốc nói đơn vị vú tại Trung tâm Ung thư Champalimaud tại Lisbon, Bồ Đào Nha và là tác giả chính của nghiên cứu. "Điều này phần lớn là do ung thư vú của nam giới là một bệnh hiếm gặp - nó chỉ chiếm 1% ung thư vú - và chúng ta biết rất ít về sinh học của nó và cách tốt nhất để điều trị bệnh nhân."
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các đặc điểm lâm sàng và sinh học của bệnh ung thư vú của nam giới không giống như các đặc điểm của bệnh ung thư vú ở phụ nữ:
  • 92% ung thư vú của nam giới trong nghiên cứu này là estrogen receptor dương; ở phụ nữ khoảng 70% ung thư vú là estrogen receptor dương
  • 5% của bệnh ung thư vú của nam giới là HER2 dương tính; ở phụ nữ khoảng 20% ​​ung thư vú HER2 dương
  • 1% của bệnh ung thư vú của nam giới là triple-âm (estrogen receptor âm, progesterone thụ âm tính, và HER2-âm); ở phụ nữ là 10% -15% các bệnh ung thư vú là triple-tiêu cực
Mặc dù hầu hết các bệnh ung thư vú của nam giới là estrogen receptor dương, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng chỉ có 77% những người đàn ông được điều trị bằng liệu pháp hormone.
Đồng thời, mặc dù 56% các bệnh ung thư vú của nam giới được chẩn đoán có khối u rất nhỏ, 96% những người đàn ông đã cắt bỏ vú và chỉ 4% có cắt bỏ khối u.
Sau khoảng 6 năm theo dõi, 63% những người đàn ông còn sống.
"Chúng tôi đang tiếp tục phân tích các mẫu khối u mà chúng tôi thu thập được trong phần đầu của dự án," Tiến sĩ Cardoso nói. "Nhưng chúng tôi cũng đã bắt đầu phần hai, đó là đăng ký tương lai của tất cả những người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở nhiều nước châu Âu, Mỹ Latin, và các nước Bắc Mỹ trong suốt một khoảng thời gian 2 năm. Điều này sẽ cho phép các bộ sưu tập của một loạt hiện tại của các bệnh nhân và khẳng định khả năng của mạng để chạy thử nghiệm lâm sàng ở bệnh hiếm gặp này. Chúng tôi cũng hy vọng sẽ sớm bắt đầu phần ba của dự án, đó sẽ là một thử nghiệm lâm sàng để thử nghiệm một phương pháp điều trị mới tiềm năng đối với người bị ung thư vú ".
Bởi vì ung thư vú ở nam giới là rất hiếm, rất khó để nghiên cứu cách thức tốt nhất để xử lý nó. Trong quá khứ, hầu hết các phương pháp điều trị ung thư vú của nam giới đã được mô phỏng theo phương pháp điều trị cho phụ nữ. Điều này hứa hẹn nghiên cứu và nghiên cứu trong tương lai của mình sẽ giúp các bác sĩ tìm hiểu thêm về bệnh ung thư vú của nam giới và cách tốt nhất để xử lý nó.
Để tìm hiểu thêm về bệnh ung thư vú của nam giới, hãy truy cập vào benhvienungbuouhungviet.vn.

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Tìm hiểu về ung thư hạch - không hodgkin

1. Ung thư không Hodgkin là gì?
Ung thư hạch không hodgkin còn được gọi là U lymphô không Hodgkin. U lymphô không Hodgkin là một loại ung thư. U lymphô là một thuật ngữ chung chỉ các loại ung thư phát triển trong hệ bạch huyết. Bệnh Hodgkin là một loại u lymphô. Tất cả các loại u lymphô khác được gọi là u lymphô không Hodgkin. u lymphô chiếm 5% tổng số các trường hợp ung thư ở Mỹ. Hệ bạch huyết là một phần trong hệ thống miên dịch của cơ thể. Hệ thống này giúp cơ thể chống lại bệnh tật và nhiêm khuẩn. Hệ bạch huyết là một mạng lưới các ống nhở, giống như mạch máu, lan toả vào các mô trên toàn cơ thể. Mạch bạch huyết có chứa bạch huyết, một loại dịch dạng nước, không màu. Dịch này có chứa các tế bào chống nhiễm khuẩn, được gọi là tế bào lymphô. Dọc theo mạng lưới mạch bạch huyết này là các hạch bạch huyết. Các đám hạch bạch huyết nẳm ở nách, bẹn, cổ, ngực và ổ bụng. Các bộ phận khác của hệ bạch huyết là lách, tuyến ức, amiđan và tuỷ xương. Mô bạch huyết có thể tìm thấy ở những bộ phận khác trong cơ thể, bao gồm dạ dày, ruột và da.

Trong bệnh u lymphô không Hodgkin, tế bào trong hệ bạch huyết trở nên không bình thường. Chúng phân chia và phát triển không theo trật tự và không thể kiểm soát được hoặc những tế bào già không chết đi giống như các tế bào bình thường. Bởi vì mô bạch huyết có mặt ở nhiều bộ phận của cơ thể, u lymphô không Hodgkin có thể bắt đầu ở bất kỳ bộ phận nào trong cơ thể. u lymphô không Hodgkin có thể xuất hiện ở một hạch đơn độc, ở một nhóm hạch hoặc ở một bộ phận khác. Loại ung thư này có thể lan sang hầu hết tất cả các bộ phận cơ thể, bao gồm gan, tuỷ xương và lách.
2. Các yếu tố nguy cơ của ung thư không Hodgkin là gì?
Bằng cách nghiên cứu các dạng ung thư trong cộng đồng, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố nguy cơ nhất định thường xuất hiện nhiều hơn ở những người bị u lymphô không Hodgkin. Tuy nhiên, hầu hết những người có các yếu tố nguy cơ này không bị u lymphô không Hodgkin và nhiều người bị bệnh lại không có yếu tố nguy cơ nào trong số đã được biết đến. Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ liên quan tới bệnh này:
- Độ tuổi/Giới tính. Nguy cơ bị u lymphô không Hodgkin tăng lên theo tuổi và thường gặp ở nam giới hơn là ở nữ giới.
- Hệ thống miễn dịch bị suy yếu. u lymphô không Hodgkin thường gặp hơn ở những người bị suy giảm miễn dịch di truyền, các bệnh tự miễn hoặc HIV/AIDS và ở những người uống các loại thuốc ức chế miễn dịch sau khi ghép tạng.
- Virút. Virút HTLV-1 và virút Epstein-Barr là hai tác nhân nhiêm trùng làm tăng nguy cơ phát triển u lymphô không Hodgkin.
- Môi trường. Những người làm việc quá nhiều hoặc tiếp xúc với một số hóa chất nhất định, như thuốc trừ sâu, dung môi, phân hóa học, có nguy cơ phát triển u lymphô không Hodgkin cao hơn.
Những ai quan tâm tới u lymphô không Hodgkin nên thảo luận với bác sĩ về bệnh tật, triệu chứng cần theo dõi và lịch khám theo dõi phù hợp. Lời khuyên của bác sĩ sẽ dựa vào độ tuổi, tiền sử bệnh và các yếu tố khác.
Tìm hiểu thêm về bệnh ung thư hạch.

Những triệu chứng ung thư hạch

Các triệu chứng của ung thư hạch thường bị xem nhẹ. Khi bạn nổi một khối u cứng trên cơ thể, mặc dù không đau không ngứa, nhưng cũng không được xem nhẹ triệu chứng này, bởi vì đây có thể là biểu hiện của bệnh ung thư hạch. Nguồn gốc của bệnh ung thư hạch là do các khối u ác tính ở hạch bạch huyết hoặc các tổ chức hạch gây nên, đây là một trong những khối u thường gặp trong 10 khối u ác tính. Những năm gần đây, tỷ lệ mắc bệnh tăng lên rõ rệt. Theo số liệu thông kê của Hội nghị quốc tế Lymphoma, trên thế giới cứ 9 phút trôi qua thì lại có 1 người mắc bệnh.

Có nhiều triệu chứng lâm sàng do bệnh lý Lymphôm không Hodgkin gây ra như:
- Nổi hạch: một hoặc nhiều hạch tại cổ, nách hoặc bẹn phình to lên nhưng không đau. Hạch Lymphô to lên có thể là dấu hiệu của bệnh lý ác tính nhưng lại thường gặp khi có tình trạng viêm nhiễm hoặc có các rối loạn lành tính khác. 2/3 các trường hợp hạch to không có nguyên nhân rõ ràng hoặc chỉ do bệnh lý đường hô hấp trên.
- Sụt cân không giải thích được.
- Sốt, các cơn sốt trở lại thường xuyên và kéo dài
- Ho, khó thở hoặc đau ngực.
- Mệt mỏi, suy kiệt kéo dài
- Vùng bụng đau, phình ra hoặc cảm giác đầy bụng.
- Tuyến bạch huyết sưng lên
- Đổ mồ hôi đêm
- Mất cảm giác ngon miệng
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: bất cứ ai có những triệu chứng lâm sàng kể trên mà không mất đi sau 2 tuần, phải đến khám bác sĩ để tìm nguyên nhân và điều trị.
Những dấu hiệu cảnh báo ung thư hạch:
Triệu chứng toàn thân
Bệnh ung thư hạch xuất hiện các triệu chứng như sốt, ngứa, ra mồ hôi trộm và sụt cân vào thời điểm trước khi hạch sưng to hoặc cùng lúc hạch sưng to. Nếu như không rõ nguyên nhân dẫn đến các triệu chứng trên, có thể tiến hành xét nghiệm máu thông thường để kiểm tra ung thư hạch.
Hạch bạch huyết sưng to
Đây là triệu chứng điển hình nhất của ung thư hạch, khối u không có cảm giác đau, sưng dần lên, bề mặt nhẵn, khi sờ vào giống như quả bóng bàn hoặc giống như phần cứng ở chóp mũi. Biểu hiện thường thấy nhất là hạch sưng to ở phần cổ và phần xương thượng đòn. Khi hạch bạch huyết sưng to, có thể tiến hành làm sinh thiết. Thường chọn các hạch bạch huyết ở dưới cổ hoặc phần nách. Đây là phương pháp kiểm tra không thể thiếu trong chẩn đoán ung thư hạch.
Biến đổi làn da
Những bệnh nhân ung thư hạch sẽ có một loạt các biểu hiện về da như ban đỏ, mụn nước, mưng mủ... Những bệnh nhân ung thư hạch giai đoạn cuối khả năng miễn dịch giảm, nên da bị nhiễm trùng thường lở loét, tiết dịch.
Khi bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng ở trên, chưa chắc đã bị ung thư hạch nhưng cần phải đến ngay bệnh viện để có những chẩn đoán chi tiết. Nếu như chẩn đoán chính xác là bị ung thư hạch, cần phải điều trị kịp thời, nâng cao hiệu quả điều trị, cải thiện chất lượng cuộc sống. Phát hiện sớm các triệu chứng trên cơ thể, để tiến hành chẩn đoán ung thư hạch có tác dụng tốt trong việc điều trị khối u hạch ác tính, kéo dài sự sống.
Khi có các triệu chứng trên các bạn có thể đến địa chỉ  Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt – 34 Đại Cồ Việt – Hai Bà Trưng – Hà Nội các bác sỹ của chúng tôi sẽ tư vấn cụ thể cho bạn và gia đình

Điều trị ung thư hạch Hodgkin

Ung thư Hodgkin được điều trị như thế nào?
Các phương thức điều trị chính cho bệnh Hodgkin là hóa chất và chiếu xạ. Người ta sử dụng các hóa chất mạnh để tiêu diệt tế bào ung thư và đo liều chiếu xạ rất kỹ càng. Trước khi điều trị bác sỹ sẽ thảo luận với bệnh nhân về tác dụng phụ đặc trưng của hóa chất, của chiếu xạ và phác đồ điều trị điển hình.
Quyết định sử dụng hóa chất hoặc chiếu xạ hoặc cả hai biện pháp điều trị phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn của bệnh. Nguyện vọng của bệnh nhân về nguy cơ và lợi ích của phương pháp điều trị cũng là một căn cứ quan trọng trong quyết định lựa chọn biện pháp điều trị.
Giai đoạn I hoặc II
Khi bệnh ở giai đoạn I hoặc II, bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm bổ sung để xác định lựa chọn điều tri phù hợp nhất. Bệnh nhân có thể tiếp tục được phân loại thành các nhóm: có diễn biến rất thuận lợi, có diễn biến thuận lợi và có diễn biến không thuận lợi. Những bệnh nhân thuộc nhóm có diễn biến không thuận lợi có khả năng bị bệnh nặng hơn, nhưng vẫn còn ở giai đoạn bệnh sớm nhất. Việc chia nhóm như vậy giúp bác sĩ tìm ra lựa chọn điều trị phù hợp nhất cho bệnh nhân giai đoạn sớm.
Các tiêu chuẩn được sử dụng để xác định bệnh giai đoạn I hoặc II có diễn biến thuận lợi hoặc không thuận lợi bao gồm tình trạng có u lớn trong lồng ngực, số lượng vùng hạch tổn thương, độ tuổi của bệnh nhân, có triệu chứng lâm sàng hoặc bất thường về tốc độ lắng máu đặc hiệu. Quyết định điều trị ung thư hạch tuỳ thuộc vào diễn biến của bệnh là thuận lợi hay không.
Bệnh diễn biến thuận lợi
Có một số lựa chọn điều trị cho bệnh nhân giai đoạn I hoặc II có bệnh diễn biến thuận lợi hoặc rất thuận lợi. Như trên đã nêu, một số bệnh nhân có thể được chỉ định mở ổ bụng để phân giai đoạn giúp khẳng định chắc chắn là bệnh chưa lan. Nếu vậy, bệnh nhân có thể được chiếu xạ vào vùng tổn thương.
Đối với bệnh nhân không được mở ổ bụng, các lựa chọn điều trị bao gồm hóa chất phối hợp với chiếu xạ hoặc chiếu xạ đơn độc. Điều trị phối hợp hóa chất với chiếu xạ cho tỷ lệ tái phát thấp hơn, nhưng thường có độc tính cao hơn. Nguy cơ tái phát cao hơn sau chiếu xạ đơn độc, nhưng bệnh nhân tái phát sau chiếu xạ đơn độc có thể dễ điều trị hơn so với bệnh nhân tái phát sau điều trị phối hợp hóa chất và chiếu xạ. Bệnh nhân và bác sĩ phải thảo luận thật kỹ càng các lựa chọn điều trị này, vì nguyện vọng của bệnh nhân đối với nguy cơ tái phát và tác dụng phụ của điều trị đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định.
Bệnh diễn biến không thuận lợi
Bệnh nhân giai đoạn I hoặc II có bệnh diễn biến không thuận lợi thường được điều trị ung thư hạch bằng cả hóa chất và chiếu xạ.
Giai đoạn IIỈA
Ở giai đoạn này tỷ lệ chữa khỏi bệnh ban đầu có thể đạt 60-80% chi bâng phương pháp chiếu xạ vào tất cả các hạch mà không dùng hóa chất. Tuy nhiên, do nguy cơ tái phát sau điều trị như vậy lên tới 50% nên hóa chất thường được sử dụng phối hợp. Trong một số trường hợp, các bệnh nhân này được điều trị bâng hóa chất đơn độc. Quyết định điều trị phụ thuộc vào nguyện vọng của bệnh nhân về thời gian điều trị, tác dụng mong đợi và các độc tính có thể gặp. Một số thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ tái phát giảm khi bệnh nhân điều trị bằng chiếu xạ phối hợp với hóa chất so với bệnh nhân được điều trị bằng hóa chất đơn độc, nhưng không một thử nghiệm nào trong số này cho thấy sự khác biệt về tỷ lệ sống sót.
Giai đoạn IIIB
Thông thường những bệnh nhân này được điều trị bằng hóa chất đơn độc. Trong một số trường hợp có thể chiếu xạ vào vùng có khối u lớn hoặc vào những vùng không đáp ứng hoàn toàn với hóa chất.
Giai đoạn IV
Điều trị tương tự như giai đoạn IIIB, chủ yếu là bằng hóa chất đơn độc. Một số trường hợp nhất định có thể chiếu xạ.
Ghép tuỷ xương
Truyền tế bào mầm tự thân sau khi dùng hóa chất liều cao là phương thức điều trị hiệu quả cho bệnh nhân tái phát sau điều trị hóa chất hoặc hóa chất phối hợp với chiếu xạ ban dâu. Ghép tủy xương (còn gọi là cấy tế bào tạo máu) là biện pháp điều trị trong đó người ta sử dụng hóa chất hoặc chiếu xạ liều rất cao để diệt các tế bào ung thư, nhưng cũng huỷ hoại các tế bào máu còn rất non (tế bào mầm) hình thành trong tuỷ xương. Điều này khiến cho cơ thể tạm thời không thể sản xuất được hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu đủ số lượng cần thiết. Các tế bào mầm mới được cấy vào bệnh nhân để khôi phục chức năng tạo máu của tuỷ xương.
Khám định kỳ theo dõi gồm những gì?
Bệnh nhân u lymphô Hodgkin nên khám theo dõi định kỳ sau khi kết thúc điều trị. Theo dõi là một phần quan trọng trong phác đồ điều trị và bệnh nhân nên thảo luận ngay với bác sĩ. Khám theo dõi định kỳ đảm bảo việc bệnh nhân được giám sát cẩn thận và bất kỳ thay đổi nào về sức khỏe cũng được thảo luận, ung thư mới hoặc ung thư tái phát có thể được phát hiện và điều trị sớm nhất. Giữa các đợt khám theo dõi định kỳ, bệnh nhân u lymphô Hodgkin nên thông báo với bác sĩ về tất cả những vấn đề sức khỏe ngay khi chúng xuất hiện.
Ìm hiểu thêm về bệnh ung thư hach

Ung thư Hodgkin được chẩn đoán như thế nào?

Nếu nghi ngờ bị HD sau khi khai thác tiền sử và xét nghiệm lâm sàng, cần phải sinh thiết hạch để xác định chẩn đoán. Bác sĩ sẽ không sinh thiết hạch bẹn nếu có một hạch nghi ngờ ở vị trí nào khác. Đôi khi các bác sỹ có thể yêu cầu thêm sinh thiết hạch nếu bệnh ung thư Hodgkin được chẩn đoán dựa vào kết quả sinh thiết ngoài hạch. Thủ thuật mở ổ bụng để chẩn đoán hiện nay không còn được chỉ định để phân giai đoạn HD.

Sinh thiết tuý xương
Khi có tế bào ung thư ở tuỷ xương thì có nghĩa là bệnh đã ở giai đoạn muộn; ở giai đoạn sớm điều này chi gặp ở dưới 1% bệnh nhân. Sinh thiết tủy xương có thể phát hiện ra tình trạng thâm nhiễm vào tuỷ xương. Tuy nhiên, kết quả sinh thiết tuỷ xương thường không ảnh hưởng tới điều trị, đặc biệt là ở bệnh nhân giai đoạn muộn.
Mặc dù có các hạn chế này, sinh thiết tuý xương thường được chi định cho bệnh nhân bị HD mới được chẩn đoán; ở Anh, một nghiên cứu công bố 74% bác sĩ chuyên khoa huyết học và 40% bác sĩ ung thư lâm sàng tiến hành sinh thiết tuỷ xương. Các khuyến cáo hiện nay gợi ý sinh thiết tuỷ xương là phù hợp với bệnh nhân mới được chẩn đoán HD nếu họ có một hoặc một số đặc điểm dưới đây:
- Có một nhóm các triệu chứng được gọi là "hội chứng B", gồm có sốt, ra mồ hôi ban đêm, giảm cân và đôi khi bị mệt và ngứa.
- Bệnh ở giai đoạn III hoặc IV trên lâm sàng
- Thiếu máu, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu
Các xét nghiệm cận lâm sàng
Sau khi đã xác định chẩn đoán bệnh Hodgkin trên sinh thiết, các bác sĩ sẽ cho người bệnh làm thêm một số xét nghiệm như:
- Công thức máu toàn bộ
- Tốc độ máu láng
- Xét nghiệm chức năng gan, xương và thận.
Mặc dù các kết quả này không trực tiếp quyết định giai đoạn bệnh nhưng sẽ giúp bác sĩ lựa chọn liệu pháp điều trị và gợi ý các xét nghiệm thăm dò thêm để xác định các vị trí tổn thương khác.
Thăm dò hình ảnh
Sau khi chẩn đoán HD, các bác sĩ thường yêu cầu làm thêm các thăm dò bổ sung như chụp X quang lồng ngực; chụp cắt lớp ngực, ổ bụng và khung chậu. Ghi hình vùng cổ ngày càng trở nên phổ biến. Ngoài chụp CT, chụp với galium hoặc PET cũng được khuyến cáo.
• Lồng ngực
Tất cả các bệnh nhân cần được chụp X quang lồng ngực thẳng và nghiêng. Trước kia, chụp cắt lớp chỉ được thực hiện khi chụp X quang cho kết quả bình thường để phát hiện các hạch nhỏ có thể bị bỏ qua khi chụp X quang. Tuy nhiên, chụp cắt lớp lồng ngực hiện nay được khuyến cáo cho tất cả bệnh nhân mới mác vì nó có thể phát hiện ra các bất thường một cách chính xác hơn, giảm số lượng kết quả dương tính giả và thường cung cấp cho bác sĩ tin để thay đổi liệu pháp điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.
• Ổ bụng
Chụp cắt lớp được sử dụng rộng rãi để thay thế chụp bạch mạch ở hai chân (tiêm thuốc cản quang vào bạch mạch hai chân để làm hiện hình hạch và bạch mạch trên phim X quang) để tìm tổn thương trong ổ bụng, do kỹ thuật này dễ tiến hành và thuận tiện cho bệnh nhân hơn. Chụp bạch mạch ở hai chân vẫn có thể được chi định cho bệnh nhân có tổn thương dưới cơ hoành và đang được xem xét chiếu xạ, vì nó cho phép bảo vệ mô lành một cách chính xác hơn.
• Lách
Mặc dù chụp cát lớp có thể cung cấp thông tin chi tiết về gan và lách, nhưng chẩn đoán HD ở lách vẫn rất khó khăn. Chụp với đồng vị phóng xạ và chụp cộng hưởng từ cũng không đủ độ tin cậy và chính xác để phát hiện tình trạng tổn thương ở lách. Vì vậy, thủ thuật mở bụng để phân giai đoạn được chỉ định cho các trường hợp trong đó các biện pháp điều trị có thể thay đổi tuỳ thuộc vào tình trạng tổn thương lách.
• Gan
Tổn thương gan gặp ở gần 5% các trường hợp bị HD. Tổn thương thường là rất nhỏ, không nhìn được bằng mắt thường, do vậy việc chẩn đoán trở nên khó khăn. Các hướng dẫn hiện nay khuyến cáo phải sử dụng tối thiểu hai kỹ thuật hiện hình để chẩn đoán các đa tổn thương do HD ở gan.
• Xương
Tổn thương xương hiếm gặp ở thời điểm chẩn đoán HD, nó xuất hiện quá trình tiến triển bệnh ở 20% bệnh nhân. Khi bệnh nhân bị đau xương hoặc đau khớp hoặc khi có các kết quả cận lâm sàng đặc hiệu hoặc khi nghi có các vùng tổn thương ở xương trên phim CT hoặc X quang thường quy, các bác sĩ thường chi định làm hình xạ hương.
• Ống tiêu hóa
HD hiếm khi xuất hiện ở ống tiêu hóa. Nếu nghi có tổn thương ở Ống tiêu hóa, người bệnh sẽ được chụp ống tiêu hóa
có bơm barium để phát hiện, sau đó được nội soi và sinh thiết để khẳng định chẩn đoán.
• Hệ thần kinh trung ương
Tổn thương ở hệ thần kinh trung ương hiếm khi gặp ở bệnh nhân bị bệnh Hodgkin. Có thể có tổn thương não hoặc tuỷ sống.
Bác sĩ có thể xác định chẩn đoán dựa vào chụp X quang thảng, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ và xét nghiệm dịch não tuỷ.
Có một số thuật ngữ liên quan đến các tiêu chuẩn phân giai đoạn là:
- Hạch bạch huyết "vùng": một vùng hạch bạch huyết và mô lân cận; ví dụ hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn hoặc hạch trung thất trong lồng ngực.
- Các cấu trúc ngoài hạch: các cơ quan hoặc các cấu trúc thuộc hệ bạch huyết, ví dụ như lách, tuỷ xương và tuyến ức.
- Cơ hoành: Một cơ rộng ngăn cách khoang lồng ngực và khoang bụng.
Các giai đoạn
Giai đoạn I - Chỉ có tổn thương bệnh ở một vùng hạch hoặc một cấu trúc ngoài hạch.
Giai đoạn II - Tổn thương từ 2 vùng hạch hoặc cấu trúc hạch trở lên nhưng ở về một phía của cơ hoành.
Giai đoạn III - Tổn thương các vùng hạch hoặc cấu trúc hạch ở cả hai phía của cơ hoành.
Giai đoạn IV - Tổn thương lan rộng nhiều cơ quan và các mô ngoài các vùng hạch hoặc cấu trúc hạch, ví dụ gan, phổi hoặc tuỷ xương.
Xác định dưới nhóm
Các tiêu chuẩn bổ sung giúp bác sĩ tiếp tục xác định các dưới nhóm trong một giai đoạn gồm:
- Các triệu chứng như sốt không rõ nguyên nhân, ra mồ hôi ban đêm hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân trong vòng 6 tháng trước khi chẩn đoán. Chữ cái "A" (ví dụ giai đoạn ILA.) có nghĩa là không có các triệu chứng này. Chữ cái "B" (ví dụ giai đoạn IIIB) có nghĩa là có các triệu chứng này;
- Tình trạng lan tại chỗ của bệnh từ một vùng hạch hoặc cấu trúc hạch tới mô lân cận hoặc liền kề ở cùng một vùng của cơ thể được biểu diễn bằng chữ cái "e", (ví dụ giai đoạn Ile);
- Tổn thương ở lách được biểu diễn bằng chữ cái "s" (ví dụ giai đoạn IIIs);
- Tình trạng "bệnh lan rộng", khi mô ung thư có kích thước lớn, được biểu diễn bâng chữ cái X.
Ví dụ, một bệnh nhân bị bệnh Hodgkin có tổn thương hạch cổ, hạch trung thất và hạch bẹn (có nghĩa là cả trên và dưới cơ hoành) đồng thời có các triệu chứng như sốt, ra mồ hôi vào ban đêm và giảm cân (các triệu chứng toàn thân), được xếp vào giai đoạn IIIB.
Tìm hiểu thêm về ung thư hạch.

Bệnh Hodgkin có là ung thư hạch không?

1. Bệnh Hodgkin là gì?
Bệnh Hodgkin (HD) hay ung thư Hodgkin là một dạng u lymphô ác tính, là một loại ung thư hệ bạch huyết. Điển hình là u xuất hiện ở hạch bạch huyết rồi sau đó lan dần theo thứ tự đến các hạch khác, lách, gan và tuỷ xương. Bệnh Hodgkin còn được gọi là u lymphô Hodgkin là một loại ung thư hạch.
2. Các yêu tố nguy cơ cùa ung thư Hodgkin là gì?
Độ tuổi
Ung thư hạch bệnh hodgkinỞ Mỹ và các nước kinh tế phát triển khác, tuổi mắc bệnh Hodgin phân bổ theo đường cong có hai đỉnh, một ở độ tuổi 20 và một ở độ tuổi trên 50. Đa số bệnh nhân là thanh niên trẻ. Hàng năm ở Mỹ có gần 7500 trường hợp HD mới mắc và khoảng 1500 trường hợp tử vong do HD. Bệnh nhân trẻ hơn có tỷ lệ sống sót sau năm năm cao hơn so với bệnh nhân nhiều tuổi: 88% đối với bệnh nhân dưới 45 tuổi ở thời điểm chẩn đoán, 77% đối với bệnh nhân từ 45 đến 54 tuổi, 67% đối với bệnh nhân từ 65 đến 74 tuổi và 38% đối với bệnh nhân từ 75 tuổi trở lên.
Vị trí địa lý và tình trạng kinh tế xã hội
Bệnh Hodgkin có các dưới loại đặc trưng ở các vùng khác nhau trên thế giới với tình trạng kinh tế xã hội khác nhau; các dưới loại này phản ánh điều kiện phát triển tế bào ung thư khác nhau. Một dưới loại là nhân xơ (NS) phổ biến ở các nước phát triển, xuất hiện ở trẻ em, ở tuổi vị thành niên và người trưởng thành. NS ở độ tuổi này chiếm phần chủ yếu ở đỉnh đâu tiên trên đường cong theo tuổi.
Ở các nước đang phát triển không có lợi thế về kinh tế, tần suất mắc bệnh HD cũng tăng vọt ở hai nhóm: ở trẻ em nam và ở người trưởng thành lớn tuổi; tỷ lệ mắc bệnh tương đối thấp ở thanh niên trẻ. Dưới loại HD phổ biến nhất ở các nước đang phát triển là dưới loại tế bào hỗn hợp (MC).
Sự khác biệt về địa lý trong tần suất mắc HD đặc hiệu theo tuổi dường như song song với mức độ phát triển công nghiệp. Ví dụ, ở các nước đang ở giai đoạn đầu công nghiệp hóa hoặc nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, sẽ thấy kiểu phân bố trung gian với đinh ở tuổi trẻ em và thanh niên trẻ, tần suất mắc dưới loại MC và NS là tương đương nhau.
Vai trò của các tác nhân nhiễm trùng
Người ta đã từng cho rằng các tác nhân nhiễm trùng, ví dụ như virút, có thể kích thích quá trình phát triển bệnh Hodgkin. Người ta cho rằng mối liên quan giữa tình trạng kinh tế xã hội và nguy cơ mác HD phản ảnh sự tiếp xúc kéo dài với cùng một loại virút. Nói cách khác, những người sống trong cùng một vùng thì có sự tiếp xúc với cùng loại virút và sẽ có cùng nguy cơ bị HD. Hiện chưa xác định được loại virút đặc hiệu gây HD, nhưng một số nghiên cứu đã cho thấy virút Epstein-Barr (EVB), virút gây bệnh bạch cầu đơn nhân có thể là nguyên nhân. Khoảng thời gian có nguy cơ bị HD cao nhất là năm đến chín năm sau chẩn đoán bệnh bạch cầu đơn nhân. Có 40% đến 50% trường hợp HD kinh điển có tế bào ung thư bị nhiễm EBV. Tần suất mắc HD ở thanh niên trẻ có lẽ liên quan với tình trạng nhiễm EBV hoặc các tình trạng nhiễm khuẩn khác khi ở độ tuổi trẻ em. Bệnh nhân ở các nước công nghiệp chưa phát triển, những người có điều kiện kinh tế xã hội thấp và trẻ em bị HD thường hay có EBV dương tính hơn so với bệnh nhân có điều kiện kinh tế xã hội cao hoặc thanh niên trẻ. Do đó, ngoài EBV thì có thể còn có các cơ chế hoặc tác nhân khác là nguyên nhân gây ra bệnh Hodgkin ở thanh niên trẻ.
Một số trường hợp HD phát triển từ EBV, nhưng còn các trường hợp không có EBV thì sao? Một khả năng là còn có một loại virút hoặc vi trùng khác tham gia vào. Khả năng thứ hai là có EBV nhưng không phát hiện ra. Khả năng thứ ba là EBV không liên quan đến quá trình phát triển HD và việc nó có mặt trong tế bào ung thư chi đơn thuần phản ánh tình trạng tế bào của một người nào đó có mang EBV.
Hiện tượng mắc bệnh thành nhóm
Mắc bệnh thành nhóm là hiện tượng trong đó các trường hợp mắc bệnh xẩy ra liền nhau về mặt thời gian và địa điểm khi được chẩn đoán. Mặc dù đã có thông báo về hiện tượng mắc bệnh thành nhóm, nhưng các nghiên cứu khác chưa khẳng định được các kết quả ban đầu này.
Yếu tố di truyền
Nhìn chung, nguy cơ bị HD ở những người có quan hệ họ hàng gần gũi với bệnh nhân HD tăng khoảng 3-5 lần so với tỷ lệ dự đoán, có thể là do tính nhạy cảm di truyền và sự tiếp xúc với cùng một môi trường. Nguy cơ tăng 7 lần ở những người là anh chị em của bệnh nhân HD còn trẻ tuổi và nguy cơ của anh chị em sinh đôi cùng trứng tăng 100 lần. Người ta không thấy nguy cơ mác bệnh tăng ở các thành viên trong gia đình của bệnh nhân trung niên bị HD.
Tìm hiểu về ung thư hạch.

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Chẩn đoán ung thư hạch như thế nào?

Nếu phát hiện thấy cơ thể xuất hiện những khối u không rõ nguyên nhân, cần phải quan sát trong một thời gian. Nếu như khối u vẫn tồn tại không biến mất, dù không có cảm giác đau cũng cần phải đi đến bệnh viện để tiến hành kiểm tra và chẩn đoán. Khi bác sỹ nghi ngờ là bị bệnh ung thư hạch, có thể tiến hành kiếm tra hạch bạch huyết hoặc mô ở những chỗ đau hay các cơ quan để có kết luận chính xác. Các bác sỹ khuyến cáo, chẩn đoán ung thư hạch không được tiến hành một cách mù quáng, bởi vì mức độ tổn thương của các bộ phận và phạm vi ảnh hưởng là không giống nhau thì biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau, tiến hành chẩn đoán một cách mù quáng chỉ càng làm tăng tỷ lệ chẩn đoán sai. Vì vậy nhất định phải chú ý đến các phương pháp chẩn đoán ung thư hạch, tiến hành kiểm tra hệ thống.

Các phương pháp chẩn đoán ung thư hạch:
Chẩn đoán hình ảnh
1. Kiểm tra siêu âm: kiểm tra siêu âm có thể phát hiện ra hạch bạch huyết có đường kính lớn hơn 2cm, nhưng không thể xác định được hạch bạch huyết to lên là do khối u xâm lấn, phản ứng hạch tăng sản hay triệu chứng viêm mãn tính, kiểm tra siêu âm có thể phát hiện ra tình trạng gan tỳ sưng to hoặc những khối u trong gan tỳ.
2. Chụp CT, cộng hưởng MRI và kiểm tra âm thanh hình ảnh: có thể phát hiện những tổn thương hạch bạch huyết và tổn thương gan tỳ ở bên trong ngực, sau màng bụng, màng treo ruột.
Khi kiểm tra phát hiện có khối u trong cơ thể, bác sỹ sẽ lấy một ít mô của khối u để tiến hành sinh thiết chỉ số khối u, xác định khối u lành tính hay ác tính. Kiểm tra này thích hợp với những bệnh nhân xuất hiện triệu chứng hạch bạch huyết sưng to.
Sinh thiết chỉ số khối u
1. Sinh thiết hạch: U hạch ác tính thường được xác định bằng cách kiểm tra bệnh lý, thường kiểm tra chỉ số bệnh lý của hạch bạch huyết.
2. Xét nghiệm máu: Những bệnh nhân bị  ung thư hạch Hodgkin thì số lượng các tế bào máu trắng bình thường. Những bệnh nhân bị ung thư hạch không Hodgkin thì số lượng tế bào máu trắng sẽ nhiều hơn so với những người bình thường, tế bào hạch tương đối hoặc tuyệt đối tăng nhiều.
3. Sinh thiết tủy: Tỷ lệ ung thư hạch xâm lấn vào tủy có thể lên đến 40% - 90%. Do tầm quan trọng của biểu hiện lâm sàng trong việc kiểm tra tủy nên cần phải chọc hút sinh thiết 1 lần, thậm chí là hơn 1 lần.
4. Sinh thiết gan: Trong ung thư hạch không Hodgkin, tế bào hạch nhỏ và tế bào phân hóa nhỏ dễ xâm lấn gan hơn tế bào phân hóa lớn.
5. Sinh thiết: là phương pháp không thể thiếu để chẩn đoán chính xác. Thường lấy hạch bạch huyết ở dưới cổ hoặc phần nách.
6. Nội soi trung thất Mediastinoscopy: Nội soi trung thất có thể đi từ niêm mạc bên ngoài ngực vào màng liên kết để tiến hành sinh thiết, tương đối đơn giản an toàn.
Nếu như sau khi kiểm tra được chẩn đoán chính xác là bị ung thư hạch. Đầu tiên không nên lo lắng, nhất định phải căn cứ vào tình hình cụ thể để phán đoán phải trị liệu như thế nào, tiến hành tư vấn các khía cạnh khác nhau. Ung thư hạch thường không dễ để làm phẫu thuật đặc biệt là khi khối u đã chèn ép lên các dây thần kinh hoặc ở rất gần các mạch máu lớn. Lúc này nên tiến hành điều trị tổng hợp, sử dụng kỹ thuật xâm lấn tối thiểu, sẽ đạt được hiệu quả điều trị tương đối tốt.
Bệnh Lymphôm không Hodgkin được chẩn đoán bằng cách:
- Khám lâm sàng: bác sĩ sẽ kiểm tra các hạch lymphô vùng cổ, nách, bẹn đồng thời, kiểm tra vùng bụng để xem gan lách có to ra hay không.
- Xét nghiệm máu: cần chú ý kết quả Lactate Dehydrogenase vì đây là một chất sẽ tăng cao nếu bệnh diễn biến nặng.
- Chụp X quang ngực
- Siêu âm
- Sinh thiết hạch: bác sĩ sẽ mổ lấy trọn hạch hoặc một phần hạch và gửi thử giải phẫu bệnh.

Các phương pháp điều trị ung thư hạch

Sau khi được chẩn đoán ung thư hạch, thường thì bệnh nhân sẽ vội vàng đi điều trị mà không hề biết rằng, phương pháp điều trị tốt nhất thì cần phải đánh giá dựa trên bệnh tình, kết hợp với các biểu hiện lâm sàng như: ra mồ hôi trộm, sút cân, sốt... Sau khi tiến hành chẩn đoán bệnh lý, phân chia giai đoạn xong, mới đưa ra phương án điều trị cho bệnh nhân.
Phương pháp phẫu thuật trong điều trị ung thư hạch hiệu quả không cao. Do tính chất của ung thư hạch mang tính toàn thân, phẫu thuật không thể loại bỏ triệt để. Thậm chí sử dụng phương pháp phẫu thuật điều trị ung thư hạch cục bộ, vẫn còn có một số hạn chế đáng kể. Sau khi phẫu thuật vẫn dễ bị tái phát hoặc di căn. Đồng thời, hóa trị cũng có tác dụng phụ gây ảnh hưởng nghiêm trọng, những phương pháp điều trị truyền thống còn tồn tại rất nhiều thiếu sót.
Các giai đoạn của ung thư hạch:
Cũng như các bệnh lý ung thư khác, xác định giai đoạn lâm sàng là yếu tố giúp tiên lượng bệnh.
Các xét nghiệm cần làm là CT scan, siêu âm, làm tủy đồ hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI).
Bệnh có 4 giai đoạn: 1, 2, 3, 4.
Giai đoạn 1, 2 là giai đoạn sớm, có tiên lượng tốt hơn.
Bên cạnh chữ số ghi giai đoạn còn có các ký hiệu A hoặc B. A là không có triệu chứng, còn B là có các triệu chứng bao gồm sốt, đổ mồ hôi đêm, sụt cân trên 10% trọng lượng cơ thể.
Các phương pháp điều trị ung thư hạch:
Lymphôm không Hodgkin là một trong những loại ung thư có khả năng trị khỏi, ngay cả trong giai đoạn trễ 3, 4 vẫn còn đến 40% khả năng đáp ứng điều trị lâu dài.
Do có nhiều hình thái lâm sàng khác nhau nên phương pháp điều trị cũng có khác nhau. Trong một số trường hợp, thường không tiến hành điều trị ngay mà bắt đầu điều trị khi có triệu chứng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định điều trị, trong đó có 2 yếu tố chủ yếu cần xem xét là diễn biến và giai đoạn bệnh.
Các phương pháp điều trị:
Các giai đoạn và phương pháp điều trị ung thư hạch- Phẫu thuật: chỉ dùng để sinh thiết chẩn đoán và ít được sửdụng để điều trị, trừ một số trường hợp như liên quan đến đường tiêu hóa.
- Xạ trị có vai trò trong một số trường hợp ở vào giai đoạn 1, tuy nhiên, chủ yếu vẫn là hỗ trợ sau hóa trị.
- Ghép tế bào gốc (Ghép tủy) được dùng trong các trường hợp có tiên lượng rất xấu, hoặc tái phát, hoặc không đáp ứng với điều trị.
- Hóa trị là phương pháp điều trị chủ yếu trong bệnh lý này. Đó là cách dùng các thuốc chống ung thư đường uống hoặc đường tiêm chích để giết tế bào ung thư. Đây là phương pháp điều trị toàn thân do thuốc theo dòng máu đến các tế bào ung thư ở khắp cơ thể. Hiện nay, với sự gia tăng hiểu biết về ung thư và sự phát triển về khoa học kỹ thuật, các chuyên gia đã phát hiện thêm một phương pháp điều trị mới là phương pháp điều trị nhắm trúng đích. Đây là phương pháp tiên tiến với các sản phẩm thuốc mới nhằm loại bỏ tế bào ung thư nhiều nhất nhưng lại ít gây hiệu quả phụ cho người bệnh; Đây cũng là một hướng phát triển với hy vọng gia tăng hơn nữa hiệu quả của cuộc chiến chống bệnh ung thư. Phương pháp nhắm trúng đích đã được áp dụng vào bệnh lý này bằng cách sử dụng thuốc kháng thể đơn dòng Rituximab (Mab-Thera) bổ sung vào các thuốc hóa trị đang được sử dụng để làm tăng khả năng trị khỏi bệnh một cách có ý nghĩa.
Tóm lại, Lymphôm không Hodghin là bệnh lý ung thư của hệ tạo huyết, xuất phát từ những rối loạn của dòng tế bào lymphô (tế bào bạch huyết). Bệnh này thường xuất phát đầu tiên tại hạch, tuy nhiên, cũng có thể xuất phát đầu tiên tại các vị trí ngoài hạch. Đây là một trong những loại bệnh ung thư có nhiều khả năng trị khỏi, có đáp ứng điều trị ngay trong những giai đoạn trễ. Hóa trị giữ vai trò chủ yếu trong điều trị và hiện nay với sự bổ sung thêm các thuốc nhắm trúng đích đã làm tăng thêm kết quả điều trị. Bên cạnh đó, chú ý điều trị nâng đỡ và dinh dưỡng đúng sẽ tăng thêm cơ hội điều trị thành công. Hiện nay, tại TPHCM, với sự phát triển các phương tiện điều trị ung thư như máy xạ trị mới, các thuốc chống ung thư, kể cả thuốc điều trị nhắm trúng đích, đã làm gia tăng hơn nữa kết quả điều trị bệnh lý này.

Ung thư hạch là gì?

Ung thư hạch là một loại khối u ác tính phát triển tại tuyến hạch. Tỷ lệ mắc bệnh ở độ tuổi từ 20- 40 tương đối cao, và tỷ lệ bệnh nhân nam nhiều hơn nữ. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ mắc ung thư hạch mỗi năm tăng 7,5%, hiện đang là một trong những bệnh ung thư có tỷ lệ tăng hàng năm nhanh nhất, toàn thế giới ước tính mỗi năm có 350 nghìn người mắc mới, số tử vong vượt qua 200 nghìn người.
Phân loại ung thư hạch:
Ung thư hạch nguyên phát loại không Hodgkin (Lymphôm không Hodgkin) là một loại bệnh lý ác tính xuất phát từ hệ bạch huyết. Đây là một trong những loại bệnh ung thư có nhiều khả năng trị khỏi, có đáp ứng điều trị ngay trong những giai đoạn trễ. Tại TPHCM, theo ghi nhận năm 2003 về ung thư hạnh, ở nam giới có 4,6/100.000 dân và ở nữ giới có 3,2/100.000 dân. Tại bệnh viện Ung bướu, hàng năm, tiếp nhận khoảng 500 trường hợp bệnh mới.
Hệ thống hạch bạch huyết là gì?
Hệ thống bạch huyết là một phần trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Hệ thống miễn dịch này có nhiệm vụ chống lại các bệnh lý nhiễm trùng cũng như các loại bệnh lý khác.
Trong hệ bạch huyết có 2 thành phần chính:
1- Mạng lưới các mạch bạch huyết
2- Các hạch bạch huyết: có kích thước từ vài mm đến hơn 1cm, thường xếp thành nhóm. Hạch bạch huyết là nơi bắt giữ và loại bỏ vi trùng và những chất có hại cho cơ thể .
Thành phần của hệ bạch huyết gồm có hạch amydan, lách, tuyến ức và mô bạch huyết ở những cơ quan khác của cơ thể như bao tử, da và ruột non.
Ung thư hạch nguyên phát hay ung thư hạch (lymphôm) có 2 dạng chính là Lymphôm Hodgkin và Lymphôm không Hodgkin. Hodgkin là tên của một bác sĩ, người đầu tiên mô tả bệnh lý ung thư nguyên phát tại hạch, ngoài ra, có một loại bệnh lý cũng là ung thư hạch nguyên phát nhưng triệu chứng khác với mô tả đầu tiên của bác sĩ Hodgkin được gọi là ung thư hạch nguyên phát loại không Hodgkin. Ung thư hạch loại không Hodgkin nhiều gấp 5 lần loại Hodgkin. Trong bài này chỉ đề cập đến loại ung thư hạch không Hodgkin (Lymphôm không Hodgkin).
Dùng chữ nguyên phát tại hạch để phân biệt rõ với hạch ung thư di căn là do những ung thư từ nơi khác trong cơ thể di chuyển đến. Lymphôm không Hodgkin được coi là bệnh lý toàn thân.
Sự nguy hiểm của bệnh ung thư hạch:
Những triệu chứng thường gặp đối với ung thư hạch gồm sốt, giảm cân ( giảm trên 10% trọng lượng cơ thể), đổ mồ hôi vào ban đêm…, tiếp đó có thể còn xuất hiện triệu chứng chán ăn, mệt mỏi, ngứa ngáy khắp cơ thể…Nhưng triệu chứng toàn thân của bệnh có liên quan đến độ tuổi mắc bệnh, phạm vi ung thư xâm lấn, sức miễn dịch cơ thể…, bệnh nhân cao tuổi, sức miễn dịch kém hoặc phát nhiều ổ bệnh thì những triệu chứng toàn thân sẽ rất rõ ràng. Còn những bệnh nhân ung thư hạch không có triệu chứng toàn thân thì tỷ lệ kéo dài sự sống cao gấp 3 lần bệnh nhân có triệu chứng toàn thân.

Bệnh ung thư hạch còn có thể di căn tới gan và lá lách gây ra gan, lách sưng to, tế bào ung thư di căn đến đường tiêu hóa làm cho bệnh nhân có biểu hiện đau bụng, đầy hơi, tắc ruột và chảy máu,…còn phổi và màng phổi là các bộ phận bị di căn thường thấy nhất ở bệnh nhân giai đoạn cuối, khi đó sẽ dẫn đến triệu chứng kèm theo là ho, và tràn dịch màng phổi. Ung thư hạch di căn xương gây ra các triệu chứng như đau xương, gãy xương bệnh lý,…di căn đến da có thể gây ra da ngứa, nốt dưới da, di căn đến các amiđan và miệng, vòm họng có thể gây ra khó khăn trong khi nuốt, nghẹt mũi,… tế bào ung thư hạch di căn đến hệ thống thần kinh có thể gây ra nén cột sống, đau thần kinh sọ, nếu như chậm trễ không điều trị thậm chí có thể dẫn đến tử vong.

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Phát hiện sớm ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày thường có ít hoặc không có triệu chứng trong các giai đoạn đầu, điều này làm cho việc phát hiện sớm ung thư dạ dày gặp khó khăn. Ung thư dạ dày có thể khó phát hiện được sớm. Thường thì không có triệu chứng gì ở các giai đoạn sớm và trong nhiều trường hợp, ung thư đã lan tỏa trước khi nó được phát hiện. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng thường quá mơ hồ đến nỗi mà người ta có thể bỏ qua. Bệnh ung thư dạ dày có thể gây ra một số triệu chứng sau:
- Khó tiêu hoặc Ợ chua.
- Khó chịu hoặc đau ở bụng.
- Ỉa chảy hoặc táo bón.
- Trướng hơi dạ dày sau các bữa ăn.
- Mất cảm giác ngon miệng.
- Yếu và mệt mỏi.
- Chảy máu (nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu). 

Bất kỳ triệu chứng nào kể trên có thể do ung thư hoặc một bệnh khác ít nguy hiểm đến tính mạng hơn gây ra, chẳng hạn như viêm dạ dày do vi rút hoặc loét. Bác sĩ khám và xét nghiệm có thể tìm được nguyên nhân. Những ai có các triệu chứng trên nên đến gặp bác sĩ của mình. Họ cũng có thể đến khám một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa là chuyên gia về chẩn đoán và điều trị các vấn đề về tiêu hóa.
Nhiều bệnh ở đường tiêu hóa có thể gây chảy máu, vì thế, có máu trong phân không nhất thiết có nghĩa là bị bệnh ung thư.
Chụp X quang đường tiêu hóa cao (dạ dày-thực quản). Bệnh nhân được cho uống dung dịch barium, một chất lỏng đặc giống phân. Barium cản tia Rơngen nên phác thảo ra hình dạ dày trên phim X quang, giúp bác sĩ tìm ra các khối u hoặc các vùng bất thường khác. Khi cho chụp phim bác sĩ có thể bơm khí vào dạ dày để giúp nhìn thấy rõ các khối u nhỏ rõ hơn.
Nam giới bị ung thư dạ dày nhiều hơn nữ giới do liên quan đến việc hút thuốc lá. Ngoài ra, những người ăn nhiều thức ăn nướng, hun khói, tẩm gia vị nhiều dễ bị ung thư dạ dày. Ung thư dạ dày còn do viêm loét dạ dày mãn tính vì nhiễm vi trùng Helicobacter pylori, đây là một loại vi trùng sống thường trú trong dạ dày. Tuy có liên quan đến vi trùng nhưng dung thư dạ dày không lây lan từ người sang người. Ngoài ra ung thư dạ dày còn liên quan đến yếu tố di truyền.
Ở giai đoạn sớm, ung thư dạ dày hầu như không có triệu chứng. Khi bệnh đã tiến xa, bệnh nhân thường cảm thấy khó chịu vùng thượng vị, cảm giác đầy bụng sau ăn, buồn nôn và ói mửa, sụt cân nhanh. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không phải là triệu chứng đặc hiệu của ung thư nên bệnh nhân dễ nhầm lẫn với các bệnh khác ở dạ dày như loét dạ dày hay nhiễm trùng nên khi bệnh được phát hiện thì ung thư đã di căn xa. Vì thế khi có các triệu chứng mơ hồ như trên kéo dài, người bệnh nên đi khám bác sĩ để tìm nguyên nhân và điều trị càng sớm càng tốt.

Chẩn đoán ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là một trong năm loại ung thư thường gặp tại Việt Nam. Triệu chứng bệnh thường mơ hồ nên bệnh nhân khi nhập viện thường ở trong giai đoạn muộn. Tại Hà Nội, ung thư dạ dày đứng hàng thứ nhì trong mười loại ung thư ở cả hai giới nam và nữ; còn tại TPHCM, ung thư dạ dày xếp hàng thứ ba ở nam và đứng thứ năm ở nữ. Nhiều yếu tố nguy cơ cho đến nay vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân gây ra ung thư dạ dày nhưng y học nhận thấy có một số yếu tố nguy cơ liên quan đến căn bệnh này. Tuổi càng cao càng dễ mắc bệnh hơn và người dân có điều kiện sống thấp dễ bị ung thư dạ dày. Một số phương pháp chẩn đoán ung thư dạ dày:

- Nội soi dạ dày là phương pháp chuẩn. Phương pháp này sử dụng một camera sợi quang học đưa vào trong dạ dày để xem hình ảnh bên trong.
- Chụp x-quang ống tiêu hóa trên.
- Chụp cắt lớp hay chụp CT bụng cũng có thể phát hiện ung thư dạ dày, nhưng được dùng nhiều hơn trong việc đánh giá mức độ xâm lấn sang các mô xung quanh, hoặc lan đến hạch bạch huyết.
Xét nghiệm máu trong phân để kiểm tra xem có máu ẩn trong phân hay không. Xét nghiệm này được tiến hành bằng cách đặt một lượng phân nhỏ lên một miếng chất dẻo hoặc trên giấy đặc biệt. Cần làm xét nghiệm này vì ung thư dạ dày đôi khi gây chảy máu nhưng không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Nội soi dạ dày là một phương pháp thăm dò giúp thầy thuốc nhìn được thành bên trong của thực quản và dạ dày bằng một ống nhỏ có nguồn sáng được gọi là ống nội soi, luồn qua miệng và thực quản xuống dạ dày. Họng của bệnh nhân được xịt thuốc tê để giảm sự khó chịu và nghẹt thở. Các bệnh nhân cũng có thể uống thuốc để giảm các hiện tượng trên. Nhờ nội soi dạ dày, bác sĩ có thể nhìn trực tiếp vào bên trong dạ dày. Nếu có một vùng bất thường được phát hiện, bác sĩ có thể lấy ra một ít mô thông qua ống nội soi để làm xét nghiệm tế bào. Một bác sĩ khác chuyên khoa bệnh học sẽ xem xét mô đó dưới kính hiển vi để tìm các tế bào ung thư. Thủ thuật lấy mô và kiểm tra nó dưới kính hiển vi được gọi là sinh thiết. Sinh thiết là cách đảm bảo duy nhất để biết liệu có các tế bào ung thư hay không.

Điều trị ung thư dạ dày

Cũng như các loại ung thư khác, điều trị cần phù hợp với từng bệnh nhân và phụ thuộc vào kích cỡ, vị trí và mức độ lan tỏa của khối u, giai đoạn của bệnh, và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân. Ung thư dạ dày thường khó chữa trừ khi được phát hiện sớm (trước khi lan tỏa). Đáng tiếc là ung thư dạ dày giai đoạn sớm thường có rất ít triệu chứng, khi được chẩn đoán thì thường bệnh đã nặng. Điều trị ung thư dạ dày bao gồm phẫu thuật, hóa trị liệu, hoặc xạ trị. Các phương pháp điều trị mới như điều trị sinh học và cải tiến các biện pháp hiện nay đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.
Phẫu thuật là cách điều trị ung thư dạ dày phố biến nhất. Phẫu thuật đó được gọi là cắt dạ dày. Bác sĩ phẫu thuật cắt một phần hoặc phần lớn dạ dày (cắt dạ dày bán phần) hoặc toàn bộ dạ dày kèm theo một phần mô xung quanh dạ dày. Sau khi cắt bán phần dạ dày, bác sĩ nối các phần còn lại của dạ dày với thực quản hoặc ruột non. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ dạ dày, bác sĩ nối thực quản trực tiếp với ruột non. Bởi vì ung thư có thể lan tỏa qua hệ thống bạch huyết, nên các hạch bạch huyết gần khối u thường được vét bỏ khi phẫu thuật để các chuyên gia bệnh học có thể kiểm tra tìm tế bào ung thư. Nếu các tế bào ung thư có trong hạch bạch huyết thì bệnh có thể đã lan sang các phần khác của cơ thể.
Điều trị ung thư dạ dày
Hóa trị liệu là dùng thuốc để diệt các tế bào ung thư. Loại điều trị này được gọi là điều trị hệ thống hay toàn thể bởi thuốc đi vào mạch máu và đi tới khắp cơ thể.
Các thử nghiệm lâm sàng đang tìm cách tốt nhất để sử dụng hóa trị liệu điều trị ung thư dạ dày. Các nhà khoa học đang khám phá ra những lợi ích của việc dùng hóa chất trước khi phẫu thuật để làm khối u nhỏ lại hoặc của việc dùng hóa chất bổ sung sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư còn sót lại. Điều trị phối hợp bằng hóa chất và tia phóng xạ cũng đang được nghiên cứu. Các bác sĩ đang tiến hành thử nghiệm một phương pháp điều trị bằng cách đưa trực tiếp vào ổ bụng các thuốc chống ung thư (đưa hóa chất vào trong phúc mạc). Hóa trị liệu cũng đang được nghiên cứu để điều trị ung thư đã lan tỏa và để làm giảm nhẹ các triệu chứng của bệnh. Hầu hết các thuốc chống ung thư đều được dùng theo đường tiêm, một số khác có thể theo đường uống. Bác sĩ có thể dùng một loại thuốc hoặc phối hợp nhiều loại thuốc. Hóa trị liệu sử dụng từng đợt: một đợt điều trị, tiếp theo là một đợt nghỉ để hồi phục, sau đó lại một đợt điều trị khác v.v... Thường thì bệnh nhân ngoại trú đến nhận điều trị bằng hóa chất tại bệnh viện, ở phòng khám của bác sĩ hoặc ở nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử dụng và tình hình sức khỏe chung của bệnh nhân mà có thể cần cho bệnh nhân nằm viện một thời gian ngắn.
Điều trị tia xạ (còn được gọi là tia xạ trị liệu) là dùng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và ngăn không cho chúng tăng trưởng. Cũng giống như phẫu thuật, nó là phương pháp điều trị tại chỗ, tia xạ chỉ tác dụng lên các tế bào ung thư trong vùng được điều trị. Điều trị tia phóng xạ đôi khi còn được tiến hành sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư có thể còn sót lại ở vùng này. Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm lâm sàng để tìm ra xem việc điều trị bằng tia phóng xạ trong khi phẫu thuật có tác dụng hay không (tia xạ trị liệu trong phẫu thuật).
Tia phóng xạ cũng có thể được dùng để làm giảm đau hoặc phong bế.
Bệnh nhân thường đến bệnh viện hàng ngày để được chiếu tia. Thông thường việc chiếu tia được tiến hành 5 ngày một tuần và kéo dài trong 5 đến 6 tuần.
Liệu pháp sinh học (còn được gọi là liệu pháp miễn dịch) là một hình thức điều trị nhằm hỗ trợ hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công và huỷ diệt các tế bào ung thư, nó cũng giúp cơ thể hồi phục khi có một vài tác dụng phụ của điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ đang nghiên cứu liệu pháp sinh học phối hợp với các phương pháp điều trị khác để cố gắng phòng ngừa ung thư dạ dày tái phát. Một chỉ định khác của liệu pháp sinh học là khi các bệnh nhân có số lượng tế bào máu thấp trong hoặc sau khi dùng hóa chất, họ có thể được dùng các yếu tố kích thích dòng tế bàomáu nhằm khôi phục số lượng tế bào. Các bệnh nhân có thể cần phải nằm viện khi sử dụng một vài loại thuốc của liệu pháp sinh học.

Ung thư dạ dày

Dạ dày là một bộ phận của hệ tiêu hoá. Đó là một cơ quan cấu tạo bằng cơ và giống như một cái túi, nằm ở khoảng giữa đoạn cuối của thực quản và đoạn đầu của ruột non. Khi thức ăn được nuốt vào, chúng đi qua thực quản và vào dạ dày.
Ung thư dạ dày là ung thư bắt đầu trong dạ dày. Ung thư dạ dày là khối u ác tính có thể phát triển ở bất cứ phần nào của dạ dày và có thể lan xuyên qua dạ dày sang các cơ quan khác. Nó có thể tăng trưởng dọc theo thành dạ dày vào thực quản hoặc ruột non. Nó cũng có thể lan rộng xuyên qua thành dạ dày và lan sang các hạch bạch huyết lân cận và lan sang các cơ quan như gan, tuyến tụy và đại tràng. 

Ung thư dạ dày cũng có thể lan tới các cơ quan xa như phổi, các hạch thượng đòn và buồng trứng. Khi ung thư lan sang phần khác của cơ thể, khối u mới có cùng loại tế bào bất thường và có cùng tên với khối u nguyên phát từ dạ dày.
Ví dụ, nếu ung thư dạ dày lan sang gan, các tế bào ung thư ở gan là các tế bào giống tế bào của khối ung thư dạ dày. Đó là ung thư dạ dày di căn chứ không phải là ung thư tế bào gan. Tuy nhiên, khi ung thư dạ dày lan sang buồng trứng, khối u ở buồng trứng được gọi là u Krukenberg, khối u này được đặt theo tên một bác sĩ, không phải là một bệnh khác, nó là ung thư dạ dày di căn đến. Các tế bào ung thư ở khối u Krukenberg là các tế bào ung thư dạ dày, cùng loại với các tế bào ung thư nguyên phát.
Các nhà khoa học cho răng, việc ăn nhiều thực phẩm được phơi khô, xông khói, ướp muối hoặc ngâm chua là một trong những nguyên nhân dẫn tới ung thư dạ dày.
Bệnh ung thư dạ dày thường khó phát hiện, thường có những triệu chứng như : khó tiêu, ợ chua... những triệu chứng về đường tiêu hóa.
Biết chính xác có bị ung thư dạ dày hay không, các bác sĩ phải chuẩn đoán bệnh: xét nghiệm X-quang... mới phát hiện sớm được bệnh
Điều trị ung thư dạ dày bằng phương pháp chính: Phẩu thuật, hóa trị liệu, tia phóng xạ...

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Triệu chứng ung thư phổi

Nhiều triệu chứng của ung thư phổi mới đầu rất mập mờ, do đó dễ bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn với các bệnh khác, gây khó khăn trong việc phát hiện sớm. Ung thư phổi sớm có thể không có triệu chứng đặc hiệu. Triệu chứng của bệnh ung thư phổi tiền phát là những cơn ho khan thường xuyên. Sau đó, từ ho khan, bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn đầu có thể ho ra đờm, đặc biệt ho nhiều vào lúc gần sáng, đôi khi dính thêm tí máu.  Khi bệnh đã phát triển đến một mức nào đó, người bệnh thường xuyên bị viêm phế quản, viêm phổi dẫn đến suy nhược cơ thể. Khi bệnh phát triển nặng hơn, có thể có các triệu chứng sưng phổi, nặng ngực, thở thấy nặng nhọc, thường xuyên thấy mệt mỏi,...
Ung thư phổi giai đoạn đầu thường không gây ra triệu chứng. Nhưng khi ung thư phổi phát triển, các triệu chứng thông thường có thể bao gồm:
Triệu chứng ung thư phổiTriệu chứng của bệnh ung thư phổi tiền phát là những cơn ho khan thường xuyên. Sau đó, từ ho khan, bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn đầu có thể ho ra đờm, đặc biệt ho nhiều vào lúc gần sáng, đôi khi dính thêm tí máu.  Khi bệnh đã phát triển đến một mức nào đó, người bệnh thường xuyên bị viêm phế quản, viêm phổi dẫn đến suy nhược cơ thể.
Nói chung, khi bị ung thư phổi, người bệnh có thể thấy các triệu chứng chung là có nhiều thay đổi có thể xảy ra trong phổi và vùng ngực. chẳng hạn như :
- Ho dài dẳng và liên tục.
- Đau ở lung, ngực và vai. Tuy nhiên, triệu chứng ung thư phổi ở mỗi người lại có cảm nhận cơn đau khác nhau, nhất là trong những lúc ho.
- Thay đổi về lượng và màu sắc của đờm.
- Khó thở.
- Giọng nói thay đổi, trở nên khafnkhafn.
- Nói khó khăn qua từng hơi thở.
- Ho ra máu.
- Mất cảm giác ngon miệng, giảm cân và liên tục mệt mõi.
- Đau xương và khớp, sung ở cổ và mặt.
- Dễ bị chảy máu
Ngoài ra còn có các dấu hiệu ung thư phổi ít gặp hơn như:
- Giọng nói khan.
- Nuốt khó.
- Có thay đổi trong hình dạng của ngon tay và móng tay
- Tắc nghẽn mạch máu ở vùng mặt
- Khó thở
Có một số loại tế bào ung thư phổi khi vào máu có thể dẫn đến triệu chứng ung thư phổi liên quan đến nội tiết tốt, bao gồm:
- Yếu trong cơ bắp.
- Tê các ngón tay
- Buồn ngủ, chóng mặt và sự nhầm lẫn
- Sưng ngực ở nam giới
Những triệu chứng này có thể do ung thư phổi gây ra hoặc cũng có thể do các bệnh lý khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ khám bệnh. Cần chú ý rằng có khoảng 13% bệnh nhân không biểu hiện bất cứ một dấu hiệu ung thư phổi nào như trên khi khối u của họ được phát hiện.
Tìm hiểu các phương pháp chuẩn đoán để sớm phát hiện ung thư từ đó có phương pháp điều trị ung thư phổi phù hợp và hiệu quả nhất đối với bệnh nhân.

Cảnh giác với bệnh ung thư phổi

Mỗi năm cả nước có hơn 20.000 bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện, 17.000 ca tử vong. Theo phó giáo sư Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương (Hà Nội), ung thư phổi là một trong những căn bệnh gây tử vong hàng đầu. Tình hình bệnh ở Việt Nam vẫn còn khá nặng nề, số bệnh nhân đang ngày càng tăng lên.

Giống như nhiều loại ung thư khác, ung thư phổi có thể được điều trị dứt điểm nếu được phát hiện sớm. Chẳng hạn, với người bị ung thư phổi ở giai đoạn 1, tỷ lệ sống sót lên tới 70%. Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân tại Việt Nam lại phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, không còn khả năng điều trị triệt để; rất ít người còn có khả năng cắt khối u.
Các dấu hiệu ung thư phổi ở giai đoạn sớm thường không đặc hiệu. Ho là biểu hiện thường gặp nhất nhưng nó cũng là dấu hiệu của nhiều bệnh lý khác. Ngoài ra, một số người có thể thấy đau ngực, khó thở, ho ra máu, sụt cân, khàn tiếng...
Nếu được phẫu thuật ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sau 5 năm ở bệnh nhân ung thư phổi có thể đạt 40-50%. Đối với bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn muộn (không còn khả năng phẫu thuật), tỷ lệ tử vong trong vòng 6 tháng tới một năm là 90%. Trong những trường hợp này, phương pháp xạ trị và hóa trị có thể giúp cải thiện tiên lượng và giảm bớt các triệu chứng ung thư phổi.
Bác sĩ Tạ Chi Phương, Trưởng khoa Ung bướu Bệnh viện phổi Trung ương cho biết, điều trị ung thư phổi có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước, vị trí, mô bệnh học của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Trong đó, phương pháp xạ trị là một phương pháp quan trọng và hiệu quả.
"Sự ra đời của phương pháp xạ trị đã làm tăng cơ hội cứu sống bệnh nhân một cách rõ rệt, kéo dài tuổi thọ của người bệnh đồng thời làm giảm thiểu các tác dụng phụ. Đặc biệt, với các bệnh nhân không thể chỉ định hoặc không muốn mổ thì xạ trị là phương pháp tối ưu nhất”, bác sĩ Phương nói.
Bệnh viện phổi Trung ương vừa đưa vào hoạt động Trung tâm xạ trị ung thư phổi công nghệ cao nhằm giúp bệnh nhân điều trị bằng phương pháp hiện đại, ít đau đớn nhất.
Nguồn: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-phoi/canh-giac-voi-benh-ung-thu-phoi.aspx

Cảnh báo ung thư phổi

Ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất và đang có xu hướng tăng lên trên toàn cầu. Ung thư phổi được hình thành từ sự phát triển không thể kiểm soát được của các tế bào bất thường xuất phát từ nhu mô phổi.
Ban đầu từ một số lượng nhỏ tế bào chứa hình thành khối u , sau đó chúng phát triển thành những khối u có kích thước lớn dần và cuối cùng các tế bào ung thư này có thể di căn đi khắp cơ thể và hình thành những khối u ở các cơ quan mới và gây tử vong cho người bệnh.
Tại Việt Nam trung bình cứ 100000 nam giới có khoảng 29 người mắc bệnh ung thư phổi và đây là bệnh hiếm gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi, tuổi mắc bệnh trung bình khoảng 50 tuổi, tuy nhiên có một số ít trường hợp bệnh nhân được phát hiện ở tuổi 30.
Cản báo ung thư phổiUng thư phổibệnh ung thư có tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử cong đứng đầu ở nam giới, các nhà khoa học đã nghiên cứu rất nhiều về nguyên nhân ung thư phổi trong nhiều năm qua và trong số các yếu tốt nguy cơ tìm thấy thì cho đến nay thuốc lá vẫn là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra ung thư phổi. Theo khoa học người nghiện thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư phổi cao gấp 20-40 lần so với người không hút thuốc lá.
Số lượng thuốc lá hút trong 1 ngày, số năm hút thuốc lá liên quan tỉ lệ thuật với nguy cơ mắc ung thư phổi ở cả những người hút thuốc thụ động . ngoài thuốc lá ra, mốt số các yếu tố nguy cơ khác được kể đến đó là khí radon, arsenic, asbestons…. Tuy nhiên thuốc lá vẫn là nguyên nhân hàng đầu và thực tế đây là nguyên nhân có thể phòng tránh bằng cách không hút thuốc lá hoặc ngừng hút thuốc lá ở những người đang hút thuốc lá.
Phòng để không mắc bệnh ung thư phổi là cách tốt nhất để không bị tử vung vì ung thư phổi là bệnh có tiên lượng xấu, sang lọc và phát hiện sớm ung thư bằng khám lâm sang, chụp X quang phổi, xét nghiệm tế bào đờm cho các đối tượng có nguy cơ cao có thể phát hiện được bệnh ở giai đoạn sớm hơn, thời gian sống thêm lâu hơn so với bệnh nhân được phát hiện ở giai đoạn muộn.
Tuy nhiên ngay cả khi được phát hiện sớm ung thư phổi cũng khó có thể được chữa khỏi hoàn toàn vì vậy cho đến nay, chưa có biện pháp sang lọc phát hiện sớm nào thực sự đem lại hiệu quả hạ thấp tỉ lệ tử vong do căn bệnh này, nên một lần nữa cần khẳng định hút thuốc lá, ngừng hút thuốc lá là phương pháp phòng bệnh ung thư tốt nhất.
Các  triệu chứng ung thư phổi ở giai đoạn sớm thường rất nghèo nàn, đôi khi bệnh được phát hiện được do tình cờ đi khám sức khỏe định kỳ hoặc khám một bệnh khác. Giai đoạn muộn bênh có dấu hiệu ung thư phổi lâm sang phong phú để chuẩn đoán hơn với các biểu hiện như ho kéo dài, ho khan hoăc ho có máu, đau ngực khó thở, khan tiếng và gây sút cân thậm chí cóc các biển hiện bệnh đã di căn xa như đau xương do di căn xương, đau đầu, nột liệt người do di căn não…
Khi có các triệu chứng ung thư phổi trên bệnh nhân thường đến viện khám, sau khi khỏi bệnh các bác sĩ cho xét nghiệm cần thiết để chuẩn đoán xem bệnh nhân có mắc ung thư phổi hay không, nếu mắc thì bệnh giai đoạn nào, các xét nghiệm thường làm bao gồm :  chụp X quang phổi thẳng nghiêng, soi phế quản, sinh thiết u qua nội soi, chụp cắt lớp lồng ngực…. đánh giá mức độ lan tràn của bệnh.
Ung thư phổi được chia thành 4 giai đoạn dựa vào đặc điểm khổi u, đặc điểm di căn hạch và có hay không có di căn xa. Giai đoạn bệnh là yếu tố quan trọng quyết định các phương pháp điều trị ung thư phổi có thể được áp dụng cho mỗi bệnh nhân ở giai đoạn sớm.
Bệnh nhân thường được phẩu thuật cắt bỏ khối u kèm theo vét hạch sau đó được điều trị hóa chất, tia xạ bổ xung tùy theo từng trường hợp, ở giai đoạn muộn hơn không còn khả năng phẩu thuật bệnh nhân thường được điều trị ung thư phổi bằng tia xạ phối hợp với hóa chất và một số phương pháp khác nhằm giảm nhẹ triệu chứng cho người bệnh.
Ung thư phổi có loại khác nhau về đặc điểm bệnh, phương pháp điều trị và cả tiên lượng. loại ung thư phổi tế bào nhỏ có thời gian sống thêm trung bình từ 9-11 tháng, tỉ lệ sống thêm 2 năm cho giai đoạn khu trú 40% , giai đoạn lan tràn là 5%
Thông thường các bệnh nhân ở giai đoạn sớm sau khi phẩu thuật , nếu được điều trị bổ xung tia xạ hoặc hóa chất thì thời gian điều trị khoảng 5-6 tháng, sau đó bệnh nhân ra vienj và sẽ được hẹn khám lại định kỳ 3 tháng/lần trong 2 năm đầu, 6 tháng cho 3 năm tiếp theo và hàng năm cho những năm sau đó.

Các yếu tố nguy cơ của ung thư phổi

Ung thư phổi bắt nguồn từ các mô của phổi, thường là từ các tế bào trong những đường dẫn khí. Có hai loại ung thư phổi là ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NCSLC). Các loại này được chẩn đoán dựa trên việc các tế bào trông như thế nào dưới kính hiển vi. Hơn 80% các ca ung thư phổi thuộc loại không phải tế bào nhỏ. Trong đó có 3 loại chính của ung thư phổi không phải tế bào nhỏ là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào lớn.
 
Thông thường, bác sĩ khó có thể giải thích được nguyên nhân tại sao một người có thể mắc bệnh ung thư phổi còn người khác thì không. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng một người có một số yếu tố nguy cơ nhất định có thể dễ phát triển thành ung thư phổi so với người khác.
Thuốc lá: Hút thuốc lá là nguyên nhân gây ung thư phổi hàng đầu. Các chất độc hại, được gọi là những tác nhân gây ung thư, có trong thuốc lá làm tổn hại tới các tế bào ở trong phổi. Dần dần, những tế bào này có thể trở thành ung thư. Xác suất một người hút thuốc bị ung thư phổi phụ thuộc vào độ tuổi bắt đầu hút thuốc, thời gian hút thuốc, lượng thuốc lá hút trong một ngày và mức độ hít khói thuốc. Ngừng hút thuốc lá có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư phổi.
Khói thuốc lá đến nay là yếu tố nguy cơ chính và quan trọng nhất đối với bệnh ung thư phổi. Nó gây ra hơn 80% của tất cả các ca ung thư phổi trên toàn thế giới. Các chất độc hại trong khói thuốc làm hư hại các tế bào phổi. Theo thời gian, các tế bào bị hư hỏng có thể trở thành ung thư. Đây là lý do tại sao hút thuốc lá, tẩu thuốc, hoặc xì gà có thể gây ung thư phổi. Hít phải khói thuốc lá cũng có thể gây ung thư phổi ở những người không hút thuốc. Một người tiếp xúc càng nhiều với khói thuốc lá, nguy cơ bị ung thư phổi càng cao.
Xì gà và thuốc lá tẩu: Những người hút xì gà và hút thuốc lá tẩu có nguy cơ mắc ung thư cao hơn những người không hút thuốc. Số năm hút thuốc, số lượng xì gà và thuốc lá tẩu hút mối ngày, mức độ hít khói thuốc đều ảnh hưởng đến nguy cơ bị ung thư phổi. Thậm chí những người hút xì gà và thuốc lá tẩu không hít khói thuốc cũng có nguy cơ mắc ung thư phổi, ung thư miệng và các loại ung thư khác cao hơn.
Khói thuốc lá trong môi trường. Nguy cơ bị ung thư phổi tăng lên khi có tiếp xúc với khói thuốc trong môi trường. Tiếp xúc với khói thuốc trong môi trường, hay khói thuốc gián tiếp được gợi là hút thuốc không tự nguyện hay hút thuốc lá thụ động.
Radon: Radon là một chất khí phóng xạ không màu, không mùi vị và không nhìn thấy bằng mắt thường trong tự nhiên có trong sỏi và đá. Nó có thể làm tổn hại tới phổi và từ đó có thể dần đến ung thư phổi. Những người làm việc trong hầm mỏ có thể tiếp xúc với khí radon và ở một số vùng ở Mỹ người ta còn tìm thấy khí radon ở trong các ngôi nhà. Hút thuốc lá còn làm nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi tăng lên cao hơn ờ những người đã có nguy cơ mắc căn bệnh này do tiếp xúc với khí radon. Một bộ dụng cụ có bán ở các cửa hàng kim khí cho phép những người chủ gia đình đo mức độ khí radon trong nhà họ. Kiểm tra mức độ khí radon trong nhà là một công việc tương đối dễ dàng và ít tốn kém. Một khi vấn đề về khí radon đã được xử lý thì sự đe dọa của nó sẽ biến mất mãi mãi.
Amiăng: Amiăng là tên gọi của một nhóm các chất khoáng, có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp. Sợi amiăng có thể dễ dàng bị đứt đoạn thành các hạt nhỏ bay lơ lửng trong không khí và dính vào quần áo. Khi hít phải những hạt này chúng sẽ cư trú ở phổi, làm tổn hại tới tế bào và tăng nguy cơ ung thư phổi. Theo kết quả của các nghiên cứu những công nhân phải tiếp xúc với một lượng lớn chất amiăng có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn gấp 3-4 lần so với những công nhân không phải tiếp xúc với chất này. Sự tiếp xúc này đã được thấy trong các ngành như đóng tàu, khai thác và sản xuất amiăng, sản xuất vật liệu cách điện và sửa chữa phanh. Nguy cơ mắc ung thư phổi ở những công nhân phải tiếp xúc với chất amiăng và hút thuốc còn cao hơn nữa. Những công nhân phải tiếp xúc với amiăng nên sử dụng những thiết bị bảo hộ lao động và tuân thủ những quy định về thực hành và an toàn lao động.
Ô nhiễm: Các nhà nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa bệnh ung thư phổi và sự tiếp xúc với một số chất gây ô nhiễm không khí nhất định, ví dụ như các sản phẩm phụ sinh ra trong quá trình đốt dầu diesel và những nhiên liệu hóa thạch khác. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng và vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu.

Các bệnh phổi: Một số bệnh phổi như bệnh lao làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Ung thư phổi có xu hướng phát triển ở những vùng phổi bị sẹo do bệnh lao gây ra.

Tiền sử bản thân: Một người đã mắc ung thư phổi một lần có nguy cơ mẳc ung thư phổi lần hai cao hơn so với một người chưa bao giờ mắc bệnh ung thư phổi. Bỏ hút thuốc sau khi được chẩn đoán ung thư phổi có thể ngăn ngừa nguy cơ bị ung thư phổi lần hai.

Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu những nguyên nhân gây bệnh ung thư phổi và tìm kiếm những cách thức để phòng chống căn bệnh này. Chúng ta đã biết rẳng cách tốt nhất đễ phòng chống ung thư phổi là bỏ hút thuốc lá (hoặc đừng bao giờ hút). Càng bỏ hút thuốc lá sớm thì càng tốt. Thậm chí nếu bạn đã hút thuốc lá trong nhiều năm thì việc bỏ hút thuốc cũng vẫn không bao giờ là quá muộn.