2014-12-21

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Phát hiện sớm ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày thường có ít hoặc không có triệu chứng trong các giai đoạn đầu, điều này làm cho việc phát hiện sớm ung thư dạ dày gặp khó khăn. Ung thư dạ dày có thể khó phát hiện được sớm. Thường thì không có triệu chứng gì ở các giai đoạn sớm và trong nhiều trường hợp, ung thư đã lan tỏa trước khi nó được phát hiện. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng thường quá mơ hồ đến nỗi mà người ta có thể bỏ qua. Bệnh ung thư dạ dày có thể gây ra một số triệu chứng sau:
- Khó tiêu hoặc Ợ chua.
- Khó chịu hoặc đau ở bụng.
- Ỉa chảy hoặc táo bón.
- Trướng hơi dạ dày sau các bữa ăn.
- Mất cảm giác ngon miệng.
- Yếu và mệt mỏi.
- Chảy máu (nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu). 

Bất kỳ triệu chứng nào kể trên có thể do ung thư hoặc một bệnh khác ít nguy hiểm đến tính mạng hơn gây ra, chẳng hạn như viêm dạ dày do vi rút hoặc loét. Bác sĩ khám và xét nghiệm có thể tìm được nguyên nhân. Những ai có các triệu chứng trên nên đến gặp bác sĩ của mình. Họ cũng có thể đến khám một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa là chuyên gia về chẩn đoán và điều trị các vấn đề về tiêu hóa.
Nhiều bệnh ở đường tiêu hóa có thể gây chảy máu, vì thế, có máu trong phân không nhất thiết có nghĩa là bị bệnh ung thư.
Chụp X quang đường tiêu hóa cao (dạ dày-thực quản). Bệnh nhân được cho uống dung dịch barium, một chất lỏng đặc giống phân. Barium cản tia Rơngen nên phác thảo ra hình dạ dày trên phim X quang, giúp bác sĩ tìm ra các khối u hoặc các vùng bất thường khác. Khi cho chụp phim bác sĩ có thể bơm khí vào dạ dày để giúp nhìn thấy rõ các khối u nhỏ rõ hơn.
Nam giới bị ung thư dạ dày nhiều hơn nữ giới do liên quan đến việc hút thuốc lá. Ngoài ra, những người ăn nhiều thức ăn nướng, hun khói, tẩm gia vị nhiều dễ bị ung thư dạ dày. Ung thư dạ dày còn do viêm loét dạ dày mãn tính vì nhiễm vi trùng Helicobacter pylori, đây là một loại vi trùng sống thường trú trong dạ dày. Tuy có liên quan đến vi trùng nhưng dung thư dạ dày không lây lan từ người sang người. Ngoài ra ung thư dạ dày còn liên quan đến yếu tố di truyền.
Ở giai đoạn sớm, ung thư dạ dày hầu như không có triệu chứng. Khi bệnh đã tiến xa, bệnh nhân thường cảm thấy khó chịu vùng thượng vị, cảm giác đầy bụng sau ăn, buồn nôn và ói mửa, sụt cân nhanh. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không phải là triệu chứng đặc hiệu của ung thư nên bệnh nhân dễ nhầm lẫn với các bệnh khác ở dạ dày như loét dạ dày hay nhiễm trùng nên khi bệnh được phát hiện thì ung thư đã di căn xa. Vì thế khi có các triệu chứng mơ hồ như trên kéo dài, người bệnh nên đi khám bác sĩ để tìm nguyên nhân và điều trị càng sớm càng tốt.

Chẩn đoán ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là một trong năm loại ung thư thường gặp tại Việt Nam. Triệu chứng bệnh thường mơ hồ nên bệnh nhân khi nhập viện thường ở trong giai đoạn muộn. Tại Hà Nội, ung thư dạ dày đứng hàng thứ nhì trong mười loại ung thư ở cả hai giới nam và nữ; còn tại TPHCM, ung thư dạ dày xếp hàng thứ ba ở nam và đứng thứ năm ở nữ. Nhiều yếu tố nguy cơ cho đến nay vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân gây ra ung thư dạ dày nhưng y học nhận thấy có một số yếu tố nguy cơ liên quan đến căn bệnh này. Tuổi càng cao càng dễ mắc bệnh hơn và người dân có điều kiện sống thấp dễ bị ung thư dạ dày. Một số phương pháp chẩn đoán ung thư dạ dày:

- Nội soi dạ dày là phương pháp chuẩn. Phương pháp này sử dụng một camera sợi quang học đưa vào trong dạ dày để xem hình ảnh bên trong.
- Chụp x-quang ống tiêu hóa trên.
- Chụp cắt lớp hay chụp CT bụng cũng có thể phát hiện ung thư dạ dày, nhưng được dùng nhiều hơn trong việc đánh giá mức độ xâm lấn sang các mô xung quanh, hoặc lan đến hạch bạch huyết.
Xét nghiệm máu trong phân để kiểm tra xem có máu ẩn trong phân hay không. Xét nghiệm này được tiến hành bằng cách đặt một lượng phân nhỏ lên một miếng chất dẻo hoặc trên giấy đặc biệt. Cần làm xét nghiệm này vì ung thư dạ dày đôi khi gây chảy máu nhưng không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Nội soi dạ dày là một phương pháp thăm dò giúp thầy thuốc nhìn được thành bên trong của thực quản và dạ dày bằng một ống nhỏ có nguồn sáng được gọi là ống nội soi, luồn qua miệng và thực quản xuống dạ dày. Họng của bệnh nhân được xịt thuốc tê để giảm sự khó chịu và nghẹt thở. Các bệnh nhân cũng có thể uống thuốc để giảm các hiện tượng trên. Nhờ nội soi dạ dày, bác sĩ có thể nhìn trực tiếp vào bên trong dạ dày. Nếu có một vùng bất thường được phát hiện, bác sĩ có thể lấy ra một ít mô thông qua ống nội soi để làm xét nghiệm tế bào. Một bác sĩ khác chuyên khoa bệnh học sẽ xem xét mô đó dưới kính hiển vi để tìm các tế bào ung thư. Thủ thuật lấy mô và kiểm tra nó dưới kính hiển vi được gọi là sinh thiết. Sinh thiết là cách đảm bảo duy nhất để biết liệu có các tế bào ung thư hay không.

Điều trị ung thư dạ dày

Cũng như các loại ung thư khác, điều trị cần phù hợp với từng bệnh nhân và phụ thuộc vào kích cỡ, vị trí và mức độ lan tỏa của khối u, giai đoạn của bệnh, và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân. Ung thư dạ dày thường khó chữa trừ khi được phát hiện sớm (trước khi lan tỏa). Đáng tiếc là ung thư dạ dày giai đoạn sớm thường có rất ít triệu chứng, khi được chẩn đoán thì thường bệnh đã nặng. Điều trị ung thư dạ dày bao gồm phẫu thuật, hóa trị liệu, hoặc xạ trị. Các phương pháp điều trị mới như điều trị sinh học và cải tiến các biện pháp hiện nay đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.
Phẫu thuật là cách điều trị ung thư dạ dày phố biến nhất. Phẫu thuật đó được gọi là cắt dạ dày. Bác sĩ phẫu thuật cắt một phần hoặc phần lớn dạ dày (cắt dạ dày bán phần) hoặc toàn bộ dạ dày kèm theo một phần mô xung quanh dạ dày. Sau khi cắt bán phần dạ dày, bác sĩ nối các phần còn lại của dạ dày với thực quản hoặc ruột non. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ dạ dày, bác sĩ nối thực quản trực tiếp với ruột non. Bởi vì ung thư có thể lan tỏa qua hệ thống bạch huyết, nên các hạch bạch huyết gần khối u thường được vét bỏ khi phẫu thuật để các chuyên gia bệnh học có thể kiểm tra tìm tế bào ung thư. Nếu các tế bào ung thư có trong hạch bạch huyết thì bệnh có thể đã lan sang các phần khác của cơ thể.
Điều trị ung thư dạ dày
Hóa trị liệu là dùng thuốc để diệt các tế bào ung thư. Loại điều trị này được gọi là điều trị hệ thống hay toàn thể bởi thuốc đi vào mạch máu và đi tới khắp cơ thể.
Các thử nghiệm lâm sàng đang tìm cách tốt nhất để sử dụng hóa trị liệu điều trị ung thư dạ dày. Các nhà khoa học đang khám phá ra những lợi ích của việc dùng hóa chất trước khi phẫu thuật để làm khối u nhỏ lại hoặc của việc dùng hóa chất bổ sung sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư còn sót lại. Điều trị phối hợp bằng hóa chất và tia phóng xạ cũng đang được nghiên cứu. Các bác sĩ đang tiến hành thử nghiệm một phương pháp điều trị bằng cách đưa trực tiếp vào ổ bụng các thuốc chống ung thư (đưa hóa chất vào trong phúc mạc). Hóa trị liệu cũng đang được nghiên cứu để điều trị ung thư đã lan tỏa và để làm giảm nhẹ các triệu chứng của bệnh. Hầu hết các thuốc chống ung thư đều được dùng theo đường tiêm, một số khác có thể theo đường uống. Bác sĩ có thể dùng một loại thuốc hoặc phối hợp nhiều loại thuốc. Hóa trị liệu sử dụng từng đợt: một đợt điều trị, tiếp theo là một đợt nghỉ để hồi phục, sau đó lại một đợt điều trị khác v.v... Thường thì bệnh nhân ngoại trú đến nhận điều trị bằng hóa chất tại bệnh viện, ở phòng khám của bác sĩ hoặc ở nhà. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc được sử dụng và tình hình sức khỏe chung của bệnh nhân mà có thể cần cho bệnh nhân nằm viện một thời gian ngắn.
Điều trị tia xạ (còn được gọi là tia xạ trị liệu) là dùng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư và ngăn không cho chúng tăng trưởng. Cũng giống như phẫu thuật, nó là phương pháp điều trị tại chỗ, tia xạ chỉ tác dụng lên các tế bào ung thư trong vùng được điều trị. Điều trị tia phóng xạ đôi khi còn được tiến hành sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư có thể còn sót lại ở vùng này. Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm lâm sàng để tìm ra xem việc điều trị bằng tia phóng xạ trong khi phẫu thuật có tác dụng hay không (tia xạ trị liệu trong phẫu thuật).
Tia phóng xạ cũng có thể được dùng để làm giảm đau hoặc phong bế.
Bệnh nhân thường đến bệnh viện hàng ngày để được chiếu tia. Thông thường việc chiếu tia được tiến hành 5 ngày một tuần và kéo dài trong 5 đến 6 tuần.
Liệu pháp sinh học (còn được gọi là liệu pháp miễn dịch) là một hình thức điều trị nhằm hỗ trợ hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công và huỷ diệt các tế bào ung thư, nó cũng giúp cơ thể hồi phục khi có một vài tác dụng phụ của điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các bác sĩ đang nghiên cứu liệu pháp sinh học phối hợp với các phương pháp điều trị khác để cố gắng phòng ngừa ung thư dạ dày tái phát. Một chỉ định khác của liệu pháp sinh học là khi các bệnh nhân có số lượng tế bào máu thấp trong hoặc sau khi dùng hóa chất, họ có thể được dùng các yếu tố kích thích dòng tế bàomáu nhằm khôi phục số lượng tế bào. Các bệnh nhân có thể cần phải nằm viện khi sử dụng một vài loại thuốc của liệu pháp sinh học.

Ung thư dạ dày

Dạ dày là một bộ phận của hệ tiêu hoá. Đó là một cơ quan cấu tạo bằng cơ và giống như một cái túi, nằm ở khoảng giữa đoạn cuối của thực quản và đoạn đầu của ruột non. Khi thức ăn được nuốt vào, chúng đi qua thực quản và vào dạ dày.
Ung thư dạ dày là ung thư bắt đầu trong dạ dày. Ung thư dạ dày là khối u ác tính có thể phát triển ở bất cứ phần nào của dạ dày và có thể lan xuyên qua dạ dày sang các cơ quan khác. Nó có thể tăng trưởng dọc theo thành dạ dày vào thực quản hoặc ruột non. Nó cũng có thể lan rộng xuyên qua thành dạ dày và lan sang các hạch bạch huyết lân cận và lan sang các cơ quan như gan, tuyến tụy và đại tràng. 

Ung thư dạ dày cũng có thể lan tới các cơ quan xa như phổi, các hạch thượng đòn và buồng trứng. Khi ung thư lan sang phần khác của cơ thể, khối u mới có cùng loại tế bào bất thường và có cùng tên với khối u nguyên phát từ dạ dày.
Ví dụ, nếu ung thư dạ dày lan sang gan, các tế bào ung thư ở gan là các tế bào giống tế bào của khối ung thư dạ dày. Đó là ung thư dạ dày di căn chứ không phải là ung thư tế bào gan. Tuy nhiên, khi ung thư dạ dày lan sang buồng trứng, khối u ở buồng trứng được gọi là u Krukenberg, khối u này được đặt theo tên một bác sĩ, không phải là một bệnh khác, nó là ung thư dạ dày di căn đến. Các tế bào ung thư ở khối u Krukenberg là các tế bào ung thư dạ dày, cùng loại với các tế bào ung thư nguyên phát.
Các nhà khoa học cho răng, việc ăn nhiều thực phẩm được phơi khô, xông khói, ướp muối hoặc ngâm chua là một trong những nguyên nhân dẫn tới ung thư dạ dày.
Bệnh ung thư dạ dày thường khó phát hiện, thường có những triệu chứng như : khó tiêu, ợ chua... những triệu chứng về đường tiêu hóa.
Biết chính xác có bị ung thư dạ dày hay không, các bác sĩ phải chuẩn đoán bệnh: xét nghiệm X-quang... mới phát hiện sớm được bệnh
Điều trị ung thư dạ dày bằng phương pháp chính: Phẩu thuật, hóa trị liệu, tia phóng xạ...

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Triệu chứng ung thư phổi

Nhiều triệu chứng của ung thư phổi mới đầu rất mập mờ, do đó dễ bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn với các bệnh khác, gây khó khăn trong việc phát hiện sớm. Ung thư phổi sớm có thể không có triệu chứng đặc hiệu. Triệu chứng của bệnh ung thư phổi tiền phát là những cơn ho khan thường xuyên. Sau đó, từ ho khan, bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn đầu có thể ho ra đờm, đặc biệt ho nhiều vào lúc gần sáng, đôi khi dính thêm tí máu.  Khi bệnh đã phát triển đến một mức nào đó, người bệnh thường xuyên bị viêm phế quản, viêm phổi dẫn đến suy nhược cơ thể. Khi bệnh phát triển nặng hơn, có thể có các triệu chứng sưng phổi, nặng ngực, thở thấy nặng nhọc, thường xuyên thấy mệt mỏi,...
Ung thư phổi giai đoạn đầu thường không gây ra triệu chứng. Nhưng khi ung thư phổi phát triển, các triệu chứng thông thường có thể bao gồm:
Triệu chứng ung thư phổiTriệu chứng của bệnh ung thư phổi tiền phát là những cơn ho khan thường xuyên. Sau đó, từ ho khan, bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn đầu có thể ho ra đờm, đặc biệt ho nhiều vào lúc gần sáng, đôi khi dính thêm tí máu.  Khi bệnh đã phát triển đến một mức nào đó, người bệnh thường xuyên bị viêm phế quản, viêm phổi dẫn đến suy nhược cơ thể.
Nói chung, khi bị ung thư phổi, người bệnh có thể thấy các triệu chứng chung là có nhiều thay đổi có thể xảy ra trong phổi và vùng ngực. chẳng hạn như :
- Ho dài dẳng và liên tục.
- Đau ở lung, ngực và vai. Tuy nhiên, triệu chứng ung thư phổi ở mỗi người lại có cảm nhận cơn đau khác nhau, nhất là trong những lúc ho.
- Thay đổi về lượng và màu sắc của đờm.
- Khó thở.
- Giọng nói thay đổi, trở nên khafnkhafn.
- Nói khó khăn qua từng hơi thở.
- Ho ra máu.
- Mất cảm giác ngon miệng, giảm cân và liên tục mệt mõi.
- Đau xương và khớp, sung ở cổ và mặt.
- Dễ bị chảy máu
Ngoài ra còn có các dấu hiệu ung thư phổi ít gặp hơn như:
- Giọng nói khan.
- Nuốt khó.
- Có thay đổi trong hình dạng của ngon tay và móng tay
- Tắc nghẽn mạch máu ở vùng mặt
- Khó thở
Có một số loại tế bào ung thư phổi khi vào máu có thể dẫn đến triệu chứng ung thư phổi liên quan đến nội tiết tốt, bao gồm:
- Yếu trong cơ bắp.
- Tê các ngón tay
- Buồn ngủ, chóng mặt và sự nhầm lẫn
- Sưng ngực ở nam giới
Những triệu chứng này có thể do ung thư phổi gây ra hoặc cũng có thể do các bệnh lý khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến bác sĩ khám bệnh. Cần chú ý rằng có khoảng 13% bệnh nhân không biểu hiện bất cứ một dấu hiệu ung thư phổi nào như trên khi khối u của họ được phát hiện.
Tìm hiểu các phương pháp chuẩn đoán để sớm phát hiện ung thư từ đó có phương pháp điều trị ung thư phổi phù hợp và hiệu quả nhất đối với bệnh nhân.

Cảnh giác với bệnh ung thư phổi

Mỗi năm cả nước có hơn 20.000 bệnh nhân ung thư phổi được phát hiện, 17.000 ca tử vong. Theo phó giáo sư Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương (Hà Nội), ung thư phổi là một trong những căn bệnh gây tử vong hàng đầu. Tình hình bệnh ở Việt Nam vẫn còn khá nặng nề, số bệnh nhân đang ngày càng tăng lên.

Giống như nhiều loại ung thư khác, ung thư phổi có thể được điều trị dứt điểm nếu được phát hiện sớm. Chẳng hạn, với người bị ung thư phổi ở giai đoạn 1, tỷ lệ sống sót lên tới 70%. Tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân tại Việt Nam lại phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, không còn khả năng điều trị triệt để; rất ít người còn có khả năng cắt khối u.
Các dấu hiệu ung thư phổi ở giai đoạn sớm thường không đặc hiệu. Ho là biểu hiện thường gặp nhất nhưng nó cũng là dấu hiệu của nhiều bệnh lý khác. Ngoài ra, một số người có thể thấy đau ngực, khó thở, ho ra máu, sụt cân, khàn tiếng...
Nếu được phẫu thuật ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống sau 5 năm ở bệnh nhân ung thư phổi có thể đạt 40-50%. Đối với bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn muộn (không còn khả năng phẫu thuật), tỷ lệ tử vong trong vòng 6 tháng tới một năm là 90%. Trong những trường hợp này, phương pháp xạ trị và hóa trị có thể giúp cải thiện tiên lượng và giảm bớt các triệu chứng ung thư phổi.
Bác sĩ Tạ Chi Phương, Trưởng khoa Ung bướu Bệnh viện phổi Trung ương cho biết, điều trị ung thư phổi có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào kích thước, vị trí, mô bệnh học của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Trong đó, phương pháp xạ trị là một phương pháp quan trọng và hiệu quả.
"Sự ra đời của phương pháp xạ trị đã làm tăng cơ hội cứu sống bệnh nhân một cách rõ rệt, kéo dài tuổi thọ của người bệnh đồng thời làm giảm thiểu các tác dụng phụ. Đặc biệt, với các bệnh nhân không thể chỉ định hoặc không muốn mổ thì xạ trị là phương pháp tối ưu nhất”, bác sĩ Phương nói.
Bệnh viện phổi Trung ương vừa đưa vào hoạt động Trung tâm xạ trị ung thư phổi công nghệ cao nhằm giúp bệnh nhân điều trị bằng phương pháp hiện đại, ít đau đớn nhất.
Nguồn: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-phoi/canh-giac-voi-benh-ung-thu-phoi.aspx

Cảnh báo ung thư phổi

Ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất và đang có xu hướng tăng lên trên toàn cầu. Ung thư phổi được hình thành từ sự phát triển không thể kiểm soát được của các tế bào bất thường xuất phát từ nhu mô phổi.
Ban đầu từ một số lượng nhỏ tế bào chứa hình thành khối u , sau đó chúng phát triển thành những khối u có kích thước lớn dần và cuối cùng các tế bào ung thư này có thể di căn đi khắp cơ thể và hình thành những khối u ở các cơ quan mới và gây tử vong cho người bệnh.
Tại Việt Nam trung bình cứ 100000 nam giới có khoảng 29 người mắc bệnh ung thư phổi và đây là bệnh hiếm gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi, tuổi mắc bệnh trung bình khoảng 50 tuổi, tuy nhiên có một số ít trường hợp bệnh nhân được phát hiện ở tuổi 30.
Cản báo ung thư phổiUng thư phổibệnh ung thư có tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử cong đứng đầu ở nam giới, các nhà khoa học đã nghiên cứu rất nhiều về nguyên nhân ung thư phổi trong nhiều năm qua và trong số các yếu tốt nguy cơ tìm thấy thì cho đến nay thuốc lá vẫn là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra ung thư phổi. Theo khoa học người nghiện thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư phổi cao gấp 20-40 lần so với người không hút thuốc lá.
Số lượng thuốc lá hút trong 1 ngày, số năm hút thuốc lá liên quan tỉ lệ thuật với nguy cơ mắc ung thư phổi ở cả những người hút thuốc thụ động . ngoài thuốc lá ra, mốt số các yếu tố nguy cơ khác được kể đến đó là khí radon, arsenic, asbestons…. Tuy nhiên thuốc lá vẫn là nguyên nhân hàng đầu và thực tế đây là nguyên nhân có thể phòng tránh bằng cách không hút thuốc lá hoặc ngừng hút thuốc lá ở những người đang hút thuốc lá.
Phòng để không mắc bệnh ung thư phổi là cách tốt nhất để không bị tử vung vì ung thư phổi là bệnh có tiên lượng xấu, sang lọc và phát hiện sớm ung thư bằng khám lâm sang, chụp X quang phổi, xét nghiệm tế bào đờm cho các đối tượng có nguy cơ cao có thể phát hiện được bệnh ở giai đoạn sớm hơn, thời gian sống thêm lâu hơn so với bệnh nhân được phát hiện ở giai đoạn muộn.
Tuy nhiên ngay cả khi được phát hiện sớm ung thư phổi cũng khó có thể được chữa khỏi hoàn toàn vì vậy cho đến nay, chưa có biện pháp sang lọc phát hiện sớm nào thực sự đem lại hiệu quả hạ thấp tỉ lệ tử vong do căn bệnh này, nên một lần nữa cần khẳng định hút thuốc lá, ngừng hút thuốc lá là phương pháp phòng bệnh ung thư tốt nhất.
Các  triệu chứng ung thư phổi ở giai đoạn sớm thường rất nghèo nàn, đôi khi bệnh được phát hiện được do tình cờ đi khám sức khỏe định kỳ hoặc khám một bệnh khác. Giai đoạn muộn bênh có dấu hiệu ung thư phổi lâm sang phong phú để chuẩn đoán hơn với các biểu hiện như ho kéo dài, ho khan hoăc ho có máu, đau ngực khó thở, khan tiếng và gây sút cân thậm chí cóc các biển hiện bệnh đã di căn xa như đau xương do di căn xương, đau đầu, nột liệt người do di căn não…
Khi có các triệu chứng ung thư phổi trên bệnh nhân thường đến viện khám, sau khi khỏi bệnh các bác sĩ cho xét nghiệm cần thiết để chuẩn đoán xem bệnh nhân có mắc ung thư phổi hay không, nếu mắc thì bệnh giai đoạn nào, các xét nghiệm thường làm bao gồm :  chụp X quang phổi thẳng nghiêng, soi phế quản, sinh thiết u qua nội soi, chụp cắt lớp lồng ngực…. đánh giá mức độ lan tràn của bệnh.
Ung thư phổi được chia thành 4 giai đoạn dựa vào đặc điểm khổi u, đặc điểm di căn hạch và có hay không có di căn xa. Giai đoạn bệnh là yếu tố quan trọng quyết định các phương pháp điều trị ung thư phổi có thể được áp dụng cho mỗi bệnh nhân ở giai đoạn sớm.
Bệnh nhân thường được phẩu thuật cắt bỏ khối u kèm theo vét hạch sau đó được điều trị hóa chất, tia xạ bổ xung tùy theo từng trường hợp, ở giai đoạn muộn hơn không còn khả năng phẩu thuật bệnh nhân thường được điều trị ung thư phổi bằng tia xạ phối hợp với hóa chất và một số phương pháp khác nhằm giảm nhẹ triệu chứng cho người bệnh.
Ung thư phổi có loại khác nhau về đặc điểm bệnh, phương pháp điều trị và cả tiên lượng. loại ung thư phổi tế bào nhỏ có thời gian sống thêm trung bình từ 9-11 tháng, tỉ lệ sống thêm 2 năm cho giai đoạn khu trú 40% , giai đoạn lan tràn là 5%
Thông thường các bệnh nhân ở giai đoạn sớm sau khi phẩu thuật , nếu được điều trị bổ xung tia xạ hoặc hóa chất thì thời gian điều trị khoảng 5-6 tháng, sau đó bệnh nhân ra vienj và sẽ được hẹn khám lại định kỳ 3 tháng/lần trong 2 năm đầu, 6 tháng cho 3 năm tiếp theo và hàng năm cho những năm sau đó.

Các yếu tố nguy cơ của ung thư phổi

Ung thư phổi bắt nguồn từ các mô của phổi, thường là từ các tế bào trong những đường dẫn khí. Có hai loại ung thư phổi là ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NCSLC). Các loại này được chẩn đoán dựa trên việc các tế bào trông như thế nào dưới kính hiển vi. Hơn 80% các ca ung thư phổi thuộc loại không phải tế bào nhỏ. Trong đó có 3 loại chính của ung thư phổi không phải tế bào nhỏ là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô tế bào lớn.
 
Thông thường, bác sĩ khó có thể giải thích được nguyên nhân tại sao một người có thể mắc bệnh ung thư phổi còn người khác thì không. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng một người có một số yếu tố nguy cơ nhất định có thể dễ phát triển thành ung thư phổi so với người khác.
Thuốc lá: Hút thuốc lá là nguyên nhân gây ung thư phổi hàng đầu. Các chất độc hại, được gọi là những tác nhân gây ung thư, có trong thuốc lá làm tổn hại tới các tế bào ở trong phổi. Dần dần, những tế bào này có thể trở thành ung thư. Xác suất một người hút thuốc bị ung thư phổi phụ thuộc vào độ tuổi bắt đầu hút thuốc, thời gian hút thuốc, lượng thuốc lá hút trong một ngày và mức độ hít khói thuốc. Ngừng hút thuốc lá có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư phổi.
Khói thuốc lá đến nay là yếu tố nguy cơ chính và quan trọng nhất đối với bệnh ung thư phổi. Nó gây ra hơn 80% của tất cả các ca ung thư phổi trên toàn thế giới. Các chất độc hại trong khói thuốc làm hư hại các tế bào phổi. Theo thời gian, các tế bào bị hư hỏng có thể trở thành ung thư. Đây là lý do tại sao hút thuốc lá, tẩu thuốc, hoặc xì gà có thể gây ung thư phổi. Hít phải khói thuốc lá cũng có thể gây ung thư phổi ở những người không hút thuốc. Một người tiếp xúc càng nhiều với khói thuốc lá, nguy cơ bị ung thư phổi càng cao.
Xì gà và thuốc lá tẩu: Những người hút xì gà và hút thuốc lá tẩu có nguy cơ mắc ung thư cao hơn những người không hút thuốc. Số năm hút thuốc, số lượng xì gà và thuốc lá tẩu hút mối ngày, mức độ hít khói thuốc đều ảnh hưởng đến nguy cơ bị ung thư phổi. Thậm chí những người hút xì gà và thuốc lá tẩu không hít khói thuốc cũng có nguy cơ mắc ung thư phổi, ung thư miệng và các loại ung thư khác cao hơn.
Khói thuốc lá trong môi trường. Nguy cơ bị ung thư phổi tăng lên khi có tiếp xúc với khói thuốc trong môi trường. Tiếp xúc với khói thuốc trong môi trường, hay khói thuốc gián tiếp được gợi là hút thuốc không tự nguyện hay hút thuốc lá thụ động.
Radon: Radon là một chất khí phóng xạ không màu, không mùi vị và không nhìn thấy bằng mắt thường trong tự nhiên có trong sỏi và đá. Nó có thể làm tổn hại tới phổi và từ đó có thể dần đến ung thư phổi. Những người làm việc trong hầm mỏ có thể tiếp xúc với khí radon và ở một số vùng ở Mỹ người ta còn tìm thấy khí radon ở trong các ngôi nhà. Hút thuốc lá còn làm nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi tăng lên cao hơn ờ những người đã có nguy cơ mắc căn bệnh này do tiếp xúc với khí radon. Một bộ dụng cụ có bán ở các cửa hàng kim khí cho phép những người chủ gia đình đo mức độ khí radon trong nhà họ. Kiểm tra mức độ khí radon trong nhà là một công việc tương đối dễ dàng và ít tốn kém. Một khi vấn đề về khí radon đã được xử lý thì sự đe dọa của nó sẽ biến mất mãi mãi.
Amiăng: Amiăng là tên gọi của một nhóm các chất khoáng, có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp. Sợi amiăng có thể dễ dàng bị đứt đoạn thành các hạt nhỏ bay lơ lửng trong không khí và dính vào quần áo. Khi hít phải những hạt này chúng sẽ cư trú ở phổi, làm tổn hại tới tế bào và tăng nguy cơ ung thư phổi. Theo kết quả của các nghiên cứu những công nhân phải tiếp xúc với một lượng lớn chất amiăng có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn gấp 3-4 lần so với những công nhân không phải tiếp xúc với chất này. Sự tiếp xúc này đã được thấy trong các ngành như đóng tàu, khai thác và sản xuất amiăng, sản xuất vật liệu cách điện và sửa chữa phanh. Nguy cơ mắc ung thư phổi ở những công nhân phải tiếp xúc với chất amiăng và hút thuốc còn cao hơn nữa. Những công nhân phải tiếp xúc với amiăng nên sử dụng những thiết bị bảo hộ lao động và tuân thủ những quy định về thực hành và an toàn lao động.
Ô nhiễm: Các nhà nghiên cứu đã tìm ra mối liên hệ giữa bệnh ung thư phổi và sự tiếp xúc với một số chất gây ô nhiễm không khí nhất định, ví dụ như các sản phẩm phụ sinh ra trong quá trình đốt dầu diesel và những nhiên liệu hóa thạch khác. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng và vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu.

Các bệnh phổi: Một số bệnh phổi như bệnh lao làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Ung thư phổi có xu hướng phát triển ở những vùng phổi bị sẹo do bệnh lao gây ra.

Tiền sử bản thân: Một người đã mắc ung thư phổi một lần có nguy cơ mẳc ung thư phổi lần hai cao hơn so với một người chưa bao giờ mắc bệnh ung thư phổi. Bỏ hút thuốc sau khi được chẩn đoán ung thư phổi có thể ngăn ngừa nguy cơ bị ung thư phổi lần hai.

Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu những nguyên nhân gây bệnh ung thư phổi và tìm kiếm những cách thức để phòng chống căn bệnh này. Chúng ta đã biết rẳng cách tốt nhất đễ phòng chống ung thư phổi là bỏ hút thuốc lá (hoặc đừng bao giờ hút). Càng bỏ hút thuốc lá sớm thì càng tốt. Thậm chí nếu bạn đã hút thuốc lá trong nhiều năm thì việc bỏ hút thuốc cũng vẫn không bao giờ là quá muộn.

Phát hiện sớm & chẩn đoán ung thư phổi

Rất nhiều bệnh nhân ung thư phổi không hề có triệu chứng ở giai đoạn đầu, đến khi có các triệu chứng như: ho, đau ngực, khó thở, gầy sút cân... họ mới đi khám, khi đó hầu hết các trường hợp bệnh đều đã ở giai đoạn muộn: không thể mổ cắt bỏ u phổi được. Ung thư phổi thường được phát hiện muộn, hầu hết các trường hợp ung thư phổi được phát hiện ở Việt Nam đều ở giai đoạn muộn, không còn chỉ định phẫu thuật. Thời gian sống sau khi được phát hiện rất ngắn. Do vậy, việc phát hiện sớm ung thư phổi đóng vai trò rất quan trọng.
Để tìm ra nguyên nhân gây ra những triệu chứng ung thư phổi, bác sỹ phải xem xét tiền sử của người bệnh, tiền sử hút thuốc, tiếp xúc với các chất ở môi trường tự nhiên và môi trường lao động, tiền sử ung thư của gia đình. Bác sĩ khám bệnh và có thể cho chụp X-Quang lồng ngực và làm các xét nghiệm khác. Nếu nghi ngờ ung thư phổi thì sẽ chỉ định làm thêm xét nghiệm tế bào trong đờm (quan sát dưới kính hiển vi những tế bào lấy từ mẫu dịch nhầy ở phổi khi ho) là một xét nghiệm đơn giản mà có thể có ích cho việc phát hiện ra bệnh ung thư. Để chẩn đoán xác định ung thư phổi, bác sĩ phải nghiên cứu mô phổi. Sinh thiết – việc lấy một mẫu mô nhỏ ở phổi để chuyên gia mô bệnh học quan sát dưới kính hiển vi – có thể cho biết một người có bị ung thư hay không. Một số thủ thuật được thực hiện để có thể lấy được mẫu bệnh nhẩm này:
- Nội soi phế quản. Bác sỹ đưa một ống soi phế quản (một ống nhỏ có nguồn sáng) vào miệng hoặc mũi và luồn xuống khí quản để quan sát các đường hô hấp. Qua ống này bác sĩ có thể lấy các mẫu tế bào hoặc mẫu mô nhỏ.
- Chọc hút bằng kim. Một mũi kim được đâm xuyên qua thành ngực vào khối u để lấy mẫu mô.
- Chọc dịch màng phổi. Dùng kim lấy mẫu dịch bao quanh phổi để tìm tế bào ung thư.
- Mở lồng ngực. Đôi khi cần phải tiến hành phẫu thuật mở lồng ngực để chẩn đoán ung thư phổi. Đây là một đại phẫu thuật được thực hiện ở bệnh viện.
Phát hiện sớm ung thư phổi
Phát hiện sớm ung thư phổi
Nếu bạn có một triệu chứng và dấu hiệu cho thấy ung thư phổi, bác sĩ của bạn phải tìm hiểu xem liệu nó bắt nguồn từ ung thư hay các bệnh khác. Bạn có thể được yêu cầu làm một số xét nghiệm máu và các thủ tục chẩn đoán:
- Kiểm tra thể trạng sức khỏe.
- Chụp X-quang Vùng Ngực
- Chụp Cắt Lớp Điện Toán (CT)

Người bệnh cần làm thêm một số xét nghiệm sau để lấy bệnh phẩm:
- Xét nghiệm đờm để tìm các tế bào ung thư .
- Chọc dịch màng phổi: Bác sĩ dùng một ống kim dài để lấy dịch (từ màng phổi) từ lồng ngực. Phòng xét nghiệm kiểm tra dịch để tìm các tế bào ung thư. Phương pháp này chẩn đoán được trên 90% bệnh nhân
- Nội soi phế quản: Bác sĩ sẽ đưa một ống mỏng, nhẹ (ống soi phế quản) qua mũi hoặc miệng để đi vào phổi. Bác sĩ có thể lấy mẫu tế bào bằng ống kim, bàn chải, hoặc những dụng cụ khác. Bác sĩ cũng có thể rửa sạch vùng xét nghiệm bằng nước và thu thập tế bào trong nước rửa. Với bệnh nhân bị ở vùng rìa phổi thì phương án này không cho kết quả chính xác.
Chẩn đoán ung thư phổi
Để tìm ra nguyên nhân gây ra những triệu chứng ung thư phổi, bác sĩ phải xem xét tiền sử của người bệnh, tiền sử hút thuốc, tiếp xúc với các chất ở môi trường tự nhiên và môi trường lao động, tiền sử ung thư của gia đình.
Bác sĩ khám bệnh và có thể cho chụp X quang lồng ngực và làm các xét nghiệm khác. Nếu nghi ngờ ung thư phổi thì xét nghiệm tế bào trong đờm (quan sát dưới kính hiển vi những tế bào lấy từ mẫu dịch nhầy ở phổi khi ho) là một xét nghiệm đơn giản mà có thể có ích cho việc phát hiện ra bệnh ung thư. Để chẩn đoán ung thư phổi, bác sĩ phải nghiên cứu mô phổi. Sinh thiết tức là lấy một mẫu mô nhỏ ở phổi để chuyên gia mô bệnh học quan sát dưới kính hiển vi. Sinh thiết có thể cho biết một người có bị ung thư hay không.
Một số thủ thuật được thực hiện để có thể lấy được mẫu bệnh phẩm này:
- Nội soi phế quản. Bác sĩ đưa một ống soi phế quản (một ống nhỏ có nguồn sáng) vào miệng hoặc mũi và luồn xuống khí quản để quan sát các đường hô hấp. Qua ống này bác sĩ có thể lấy các mẫu tế bào hoặc mẫu mô nhỏ.
- Chọc hút băng kim. Một mũi kim được đâm xuyên qua thành ngực vào khối u để lấy mẫu mô.
- Chọc dịch màng phổi. Dùng kim lấy mầu dịch bao quanh phổi để tìm tế bào ung thư.
- Mở lồng ngực. Đôi khi cần phải tiến hành phẫu thuật mở lồng ngực để chẩn đoán ung thư phổi. Đây là một đại phẫu thuật được thực hiện ở bệnh viện.
Phân giai đoạn
Nếu đã chẩn đoán là ung thư phổi thì bác sĩ cần biết giai đoạn (hoặc là phạm vi) của bệnh. Tiến hành phân giai đoạn để biết được ung thư đã lan rộng chưa và nếu đã lan thì đến bộ phận nào của cơ thể. Ung thư phổi thường lan lên não hoặc vào xương. Biết được bệnh đang ở giai đoạn nào sẽ giúp cho bác sĩ lập kế hoạch điều trị.
Một số xét nghiệm được sử dụng để xác định mức độ lan của ung thư gồm:
- Chụp cắt lớp vi tính. Một máy vi tính được nối với một máy chụp X quang cho một loạt những bức tranh chi tiết về các bộ phận bên trong cơ thể.
- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân. Một nam châm mạnh được nối với một máy vi tính cho những bức tranh chi tiết về các bộ phận bên trong cơ thể.

Phương pháp điều trị ung thư phổi

Điều trị bệnh ung thư phổiUng thư phổi là loại ung thư phổ biến và gây tử vong cao. Phương pháp điều trị căn bản cho ung thư phổi là hóa trị giúp kéo dài sự sống cho bệnh nhân. Với những bệnh nhân ung thư phổi, việc xét nghiệm gene sẽ giúp các bác sĩ đưa ra phương pháp điều trị thích hợp nhất cho bệnh nhân để kiểm soát tế bào ung thư.
1. Điều trị ung thư phổi
Phẫu thuật là mổ để cắt bỏ khối u. 
Phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị tốt nhất cho các bệnh nhân bị mắc ung thư. Hiện nay cắt thùy phổi là phẫu thuật giúp cắt bỏ hoàn toàn khối u, nếu khối u lớn hơn thì có thể cắt hai thùy hoặc cắt hết một lá phổi.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư phổi mà bác sĩ tiến hành phụ thuộc vào vị trí của khối u trong phổi. Mổ để cắt bỏ chỉ một phần nhỏ của phổi được gọi là thủ thuật cắt bỏ phân thuỳ hoặc cắt hình chêm. Khi bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ một thuỳ phổi thì gọi là thủ thuật cắt bỏ thuỳ. Chữa trị ung thư phổi khi cắt bỏ phổi là lấy đi toàn bộ một lá phổi. Một số khối u không thể mổ được (không thể loại bở bằng phẫu thuật) do kích thước hoặc vị trí của khối u và một số bệnh nhân không thể tiến hành phẫu thuật vì những lí do về sức khỏe khác.
Khi không còn mổ được, xạ trị và hóa trị chỉ có giá trị nâng đỡ làm bớt đau, bớt ho. Hóa trị giúp kéo dài sự sống của người bệnh.
Hóa trị liệu
Là phương pháp điều trị ung thư phổi sử dụng thuốc chống ung thư để diệt các tế bào ung thư trên toàn cơ thể. Thậm chí sau khi ung thư được loại bỏ khỏi phổi thì các tế bào ung thư vẫn có thể xuất hiện ở những mô lân cận hoặc ở một vùng nào đó trong cơ thể. Có thể chữa trị bệnh ung thư phổi khi áp dụng hóa trị liệu để kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư hoặc là để giảm nhẹ triệu chứng. Hầu hết các loại thuốc chống ung thư được đưa vào cơ thể bằng đường tiêm tĩnh mạch trực tiếp hoặc qua một ống thông đưa vào một tĩnh mạch lớn và được lưu lại cho đến khi không cần nữa. Một số loại thuốc điều trị ung thư phổi ở dạng viên.
Điều trị bằng tia xạ
Là phương pháp điều trị ung thư phổi sử dụng tia có năng lượng lớn để tiêu diệt tế bào ung thư. Tia phóng xạ hướng vào một vùng giới hạn và chỉ tác dụng lên tế bào ung thư ở vùng đó. Có thể sử dụng tia phóng xạ trước khi phẫu thuật để làm co khối u lại hoặc là sau khi phẫu thuật để tiêu diệt tất cả những tế bào ung thư còn sót lại ở vùng phẫu thuật. Bác sĩ còn có thể chữa trị ung thư phổi khi sử dụng tia phóng xạ, thường là kết hợp với hóa trị liệu để điều trị ban đầu thay cho phẫu thuật. Tia phóng xạ còn có thể được áp dụng để làm giảm triệu chứng như khó thở. Trong điều trị ung thư phổi thường sử dụng xạ ngoài. Ngoài ra còn có thể đưa nguồn phóng xạ (hộp nhỏ chứa chất phóng xạ) trực tiếp vào khối u hoặc gần khối u (xạ áp sát).
Điều trị ung thư không phải tế bào nhỏ
Bệnh nhân bị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ có thể được điều trị theo một vài phương pháp. Lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc chủ yếu vào kích thước, vị trí và phạm vi của khối u. Phẫu thuật là phương pháp phổ biến nhất để điều trị ung thư phổi loại này. Phẫu thuật lạnh, phương pháp điều trị gây đông và phá huỷ mô ung thư, có thể được sử dụng để kiểm soát triệu chứng ở những giai đoạn muộn của ung thư không phải tế bào nhỏ. Điều trị bẳng tia phóng xạ và hóa trị liệu có thể được sử dụng để làm chậm quá trình phát triển của bệnh và kiểm soát triệu chứng.
Điều trị ung thư tế bào nhỏ
Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể lan rất nhanh. Trong nhiều trường hợp, tế bào ung thư có thể đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể khi bệnh được chẩn đoán. Để tiếp cận tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể hầu như các bác sĩ luôn luôn sử dụng hóa trị liệu. Quá trình điều trị còn có thể bao gồm việc áp dụng tia phóng xạ chiếu vào khối u trong phổi hoặc những khối u ở những bộ phận khác trong cơ thể (chẳng hạn như ở trong não). Một số bệnh nhân được điều trị ung thư phổi bằng tia phóng xạ ở não ngay cả khi không tìm thấy ung thư ở vùng này. Phương pháp điều trị này, còn được gọi là liệu pháp chiếu xạ sọ não dự phòng, được áp dụng để ngăn ngừa sự hình thành khối u trong não. Phẫu thuật là một phần trong kế hoạch chữ trị ung thư phổi đối với một số ít bệnh nhân bị ung thư phổi tế bào nhỏ.
Kết quả điều trị: Tính chung, khoảng 25 trong số 100 người bệnh còn có thể phẫu thuật được khi khối u còn nhỏ. Phân nửa số này, nghĩa là khoảng 13% trên 100 người bệnh thì có khả năng khỏi bệnh 5 năm. Theo mộ số liệu thống kê của hội ung thư Hoa Kỳ năm 2013: Khi phát hiện lúc ung thư phổi còn chwadi căn, tỷ lệ sống sau 5 năm của ung thư phổi là 50%. Nhưng đáng tiếc là chỉ có 15% số ca ung thư phổi được chẩn đoán sớm. Khi ung thư đã di căn sang các bộ phận khác thì tỉ lệ sống của người bệnh chỉ có khoảng 3,5%.
2. Tác dụng phụ của điều trị ung thư phổi
Tác dụng phụ của việc điều trị ung thư phổi phụ thuộc vào phương pháp điều trị và có thể khác nhau đối với mỗi cá thể. Tác dụng phụ thường là tạm thời. Bác sĩ và y tá có thể giải thích những tác dụng phụ có thể xuất hiện trong quá trình điều trị và họ cũng có thể gợi ý những cách thức giúp làm giảm triệu chứng có thể phát sinh trong hoặc sau khi điều trị.
Phẫu thuật ung thư phổi là một đại phẫu thuật. Bệnh nhân thường cần phải có người giúp đỡ khi trở mình, ho và thở sâu. Những hoạt động này đóng vai trò quan trọng trong quá trình hồi phục bởi vì chúng giúp mở rộng mô phổi còn lại và loại bỏ khí và dịch thừa. Đau hoặc thấy khó chịu ở ngực và tay cũng như khó thở là những tác dụng phụ thường gặp trong phẫu thuật ung thư phổi . Sau khi điều trị ung thư phổi, bệnh nhân có thể cần vài tuần hoặc vài tháng để lấy lại năng lượng và sức mạnh của cơ thể.
Hóa trị liệu tác dụng lên cả tế bào thường và tế bào ung thư. Tác dụng phụ sẽ phụ thuộc chủ yếu vào loại thuốc và liều lượng cụ thể. Tác dụng phụ thường gặp của hóa trị liệu bao gồm buồn nôn và nôn, rụng tóc, đau miệng và mệt mỏi.
chữa trị ung thư phổi bằng phương pháp tia xạ , cũng giống như hóa trị liệu, ảnh hưởng tới cả tế bào thường và tế bào ung thư. Tác dụng phụ của tia phóng xạ chủ yếu phụ thuộc vào bộ phận được chiếu tia và liều chiếu. Tác dụng phụ thường gặp của tia phóng xạ là khô và đau họng, khó nuốt, mệt mỏi, thay đổi da ở vùng điều trị, mất cảm giác ăn ngon. Bệnh nhân được chiếu xạ vào não có thể bị đau đầu, thay đổi ngoài da, mệt mỏi, buồn nôn và nôn, rụng tóc hoặc là có vấn đề với trí nhớ và quá trình tư duy.
Sau khi điều trị ung thư phổi Liệu pháp quang động học làm cho da và mắt trở nên nhạy cảm với ánh sáng trong vòng sáu tuần hoặc là lâu hơn. Bệnh nhân nên tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời trực tiếp và ánh đèn quá sáng ở trong nhà ít nhất trong vòng sáu tuần. Nếu bệnh nhân phải đi ra ngoài thì họ cần phải mặc quần áo bảo vệ và mang kính râm. Những tác dụng phụ tạm thời khác của phương pháp điều trị quang động học có thể bao gồm hiện tượng ho, khó nuốt, đau khi thở hoặc khó thở. Bệnh nhân nên thảo luận với bác sĩ về những việc cần phải làm khi da bị phồng rộp, tấy đỏ hoặc sưng lên
3. Ngăn ngừa ung thư phổi
Chưa có thuốc gì hay thức ăn nào có thể ngừa ung thư phổi. Không nên lạm dụng những chất vitamin tức sinh tố. Thí dụ, chất Beta-carotene là tiền sinh tố A ở lượng cao có thể gia tăng nguy cơ bị ung thư phổi.
Cách tốt nhất để giữ cơ thể khỏe mạnh là ăn uống điều độ và ăn đủ loại thực phẩm vì mỗi loại thức ăn có những yếu tố dinh dưỡng khác nhau cần thiết cho cơ thể. Ngưng hút thuốc lá có thể làm giảm nguy cơ ung thư phổi rất nhiều. Ngưng càng sớm càng tốt. Không hút thuốc lá là cách tốt nhất để ngừa ung thư phổi

Các dấu hiệu ung thư phổi

Ung thư phổi khi bệnh ở giai đoạn đầu thường không có biểu hiện gì rõ ràng, những biểu hiện đó thường khiến cho người bệnh dễ bị nhầm lẫn với các loại bệnh thông thường khác nên dễ chủ quan bỏ qua. Các triệu chứng ung thư phổi ban đầu thường thấy như: ho, đau ngực, khó thở, gầy sút cân, mệt mỏi,... Ho kéo dài, các thuốc chống viêm , trị ho không có tác dụng. Một nửa số người bệnh ho ra ít máu lẫn đờm. Bệnh nhân ung thư phổi cũng thường bị đau ngực, thường không có điểm đau rõ rệt, đau bên có tổn thương giống viêm dây thần kinh liên sườn. Có khi đau quanh bả vai, mặt trong cánh tay.

Hiện tượng khó thở chỉ gặp khi khối u chèn ép hoặc làm tắc khí phế quản, gây xẹp phổi, hoặc ung thư đã di căn màng phổi gây tràn dịch màng phổi. Ngoài ra, triệu chứng ung thư phổi căn bản còn bị khó nói hoặc nói giọng khan do khối u chèn ép vào dây thần kinh, khó nuốt do thực quản bị chèn ép, gầy sút, sốt nhẹ…
Việc chụp phổi bằng kỹ thuật X-quang thông thường, chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ có thể cho thấy khối u ở vị trí nào của phổi, kích thước bao nhiêu. Để chuẩn đoán đúng và phân loại ung thư, góp phần quyết định phương pháp điều trị ung thư phổi, cần xét nghiệm mô bệnh học và tế bào học.
Để phát hiện sớm ung thư phổi, nam giới từ 40 tuổi trở lên nếu nghiện thuốc lá kèm ho khan hoặc ho có đờm kéo dài nên đến bệnh viện 4 tháng/lần để chiếu chụp phổi, lấy đờm, dịch phế quản làm xét nghiệm tế bào học (5-8% số người đi khám được phát hiện ung thư phổi sớm). ở cả hai giới từ 40 tuổi trở lên, nếu có các dấu hiệu sút cân, ho kéo dài hoặc ho ra máu, đau ngực, khó thở, khó nói hoặc khó nuốt thì cần đi khám và làm các xét nghiệm.

Về điều trị ung thư phổi tùy theo từng bệnh nhân, bác sĩ chỉ định phương pháp điều trị phù hợp. Tuy nhiên cách phòng ngừa ung thư phổi là tạo môi trường sống sạch đẹp, bầu không khí trong lành, không hút thuốc lá, điều trị khỏi những bệnh của phế quản, phổi như viêm phế quản mạn, lao phổi. Ở độ tuổi 40 nên đi khám bệnh, chụp X-quang phổi định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm.

Triệu chứng ung thư phổi ở nam giới

Nguyên nhân gây ra ung thư phổi ở nam giới chủ yếu là do đại bộ phận đàn ông đều hút thuốc, coi thuốc lá như một liều thuốc giảm căng thẳng, mệt mỏi. Cánh mày râu hãy cùng tìm hiểu triệu chứng ung thư phổi để có biện pháp phòng và chữa bệnh kịp thời. Hút thuốc lá - Nguyên nhân hàng đầu của bệnh ung thư phổi.
 
Ở nam giới dấu hiệu ung thư phổi bao gồm:
1. Ho: là dấu hiệu đầu tiên khi bạn có nguy cơ mắc phải bệnh ung thư phổi. Biểu hiện là ho khan nhẹ hay ho dữ dội, ho không có đờm hoặc không thể khạc ra đờm, những cơn ho nhiều dần về đêm.
2. Ho ra máu: Triệu chứng chính của bệnh là ho mãn tính - mặc dù hầu hết các trường hợp như vậy không phải do nguyên nhân ung thư. Cuộc vận động mới đây được đưa ra tại Anh có tên Be Clear on Cancer, nhằm vào những người trên 50 tuổi, là nhóm tuổi có nguy cơ cao nhất.
trong giai đoạn đầu khi bạn mắc phải bệnh ung thư phổi sẽ xuất hiện tình trạng ho ra máu. Khi bạn sử dụng thuốc là với một lượng lớn và thường xuyên bạn sẽ có triệu chứng ung thư phổi đó là ho ra đờm có lẫn máu hoặc ho nguyên ra máu. Trong giai đoạn này nếu bạn đu chụp X-quang sẽ thấy xuất hiện tình trạng viêm ở vùng phổi.
Đau ngực là một triệu chứng ung thư phổi
Đau ngực là một triệu trứng mắc phải của bệnh ung thư phổi
3. Đau ngực: 1/3 số bệnh nhân ung thư phổi sẽ xuất hiện triệu chứng đau ngực, đau âm ỉ và kéo dài. Đặc biệt đau sẽ nặng hơn khi hít thở hoặc ho, gây khó chịu lớn cho người bệnh.
4. Sốt nhẹ: cũng là một trong các triệu chứng ung thư phổi. Sốt ở bệnh nhân ung thư phổi đại đa số là do ung thư tính nhiệt gây ra tắc nghẽn thoát dịch ở phổi và phế quản dẫn đến tình trạng viêm, điều trị kháng sinh kém hiệu quả, hơn nữa dễ mắc lặp đi lặp lại, nhiệt độ cơ thể bình thường là ở 38oC trở xuống.
5. Ngoài ra,dấu hiệu ung thư phổi thường thấy như khàn giọng, mặt bị phù, cổ bị hạch to, gầy sút cân, có thay đổi trong hình dạng của ngón tay và móng tay, dễ bị chảy máu
Hiện nay, ung thư phổi là một loại u ác tính, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Đặc biệt đối với người cao tuổi khi bị mặc bệnh này rất dễ ảnh hưởng sang xương khớp, gây ung thư xương,… Do vậy, cách tốt nhất là bạn nên hạn chế hút thuốc lá ngay từ bây giờ, khi còn có thể cứu vãn tránh đến khi đã xuất hiện một trong các triệu chứng ung thư phổi kể trên thì rất khó điều trị.
Tìm hiểu thêm về ung thư phổi.

Những điều cần biết về ung thư phổi

Ung thư phổi là căn bệnh gây khoảng 1,2 Triệu cái chết mỗi năm. Trong vòng 25 năm qua, số người chết vì ung thư phổi mới tăng dần, nguyên nhân do triệu chứng ung thư phổi giai đoạn đầu không khác gì so với các bệnh lý cơ bản, vì vậy rất khó phát hiện bệnh để điều trị sớm.
Tìm hiểu ung thư phổiSố ít người bệnh, không có dấu hiệu ung thư phổi giai đoạn đầu rõ dàng, tình cờ chụp phim ngực hoặc vì lý do nào khác, thấy khối ung thư. Còn đa số người bệnh có triệu chứng lúc ung thư được tìm ra. Triệu chứng ung thư phổi còn tùy vào ung thư còn trong phổi và ngực, hay đã lan sang các cơ quan lân cân hoặc đã theo máu di đi xa. Triệu chứng do sự hiện diện của khối ung thư trong phổi và ngực: triệu chứng nhiều nhất là ho, ho khan hoặc có đàm. Các triệu chứng khác nữa có thể xuất hiện khi khối bướu to lên, lan rộng trong ngực… Triệu chứng ung thư phổi di căn: đau xương, yếu nhược, da vàng, vàng mắt, xuống cân, nhức đầu, buồn nôn và ói mửa….
Khoảng 10-20% người bệnh ung thư phổi có thêm hội chứng gọi là Paraneoplastic syndrome, ung thư tiết ra một số chất, vào máu gây triệu chứng như đau sung khớp, ngón tay dày lên, rộng ra giống như cái chày, triệu chứng thần kinh bất thường , tính tình thay đổi(ung thư đến óc); vú to ra, chảy chất dịch giống sữa, chất calcium tăng cao trong máu…. Đây có thể xem là những triệu chứng gián tiếp ung thư phổi.
Khi ung thư phổi còn những giai đoạn đầu, chưa di căn có thể phẩu thuật để cắt hẳn khối ung thư. Nhưng khi ung thư đã sang giai đoạn ra ngoài thành ngực và di căn sang các vùng khác, giải phẩu thường không giúp được gì, chỉ chữa bằng phương pháp điều trị ung thư phổi: hóa trị và xạ trị.
Hút thuốc là yếu tố nguy hại hàng đầu gây ung thư phổi. Người hút thuốc lá có nguy cơ bị ung thư phổi 10-30 lần nhiều hơn người không hút. Tuy các yếu tố khác, chẳng hạn ngửi khói thuốc bay ra từ miếng người hút thuốc lá, tiếp xúc các chất asbestos, rado, arsenic, radiation, polycyclic, nickel… cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư phổi, nhưng cho đến nay, hút thuốc lá vẫn nguy hiểm nhất, nguyên nhân 90% trường hợp ung thư phổi.

Dấu hiệu ung thư phổi di căn

Nhiều dấu hiệu của ung thư phổi lúc đầu rất mập mờ và hay bị nhầm lẫn với những bệnh thông thường khác, do vậy khi được phát hiện thì bệnh đã bị nặng hơn. Khi ung thư phổi phát triển nặng hơn thường có các triệu chứng sưng phổi, nặng ngực, thở thấy nặng nặng, hay cảm cúm mệt mỏi. Ho húng hắng và dai dẳng, không thấy gì khác hơn cơn ho cảm bình thường, nhất là ở người có tuổi và hay hút thuốc lá thì dễ nghĩ là "tại mấy hôm trời lạnh mà lại yếu phổi".
Ung thư phổi càng về lâu càng diễn tiến xấu hơn, đau vai đau lưng thường xuyên, thở sâu thấy nặng hơn, ho ra máu, hơi thở ngắn đi, khàn tiếng, viêm thanh quản lặp đi lặp lại, đờm dính máu, phù mặt cổ, thở khó. Sụt cân vô cớ, không thèm ăn, hay mệt mỏi có thể là những triệu chứng báo động của bệnh ung thư phổi. Vì hầu hết ung thư phổi được phát hiện ở giai đoạn rất muộn nên việc điều trị cho kết quả không khả quan.
Dấu hiệu nhận biết ung thư phổiDấu hiệu ung thư phổi di căn thường ho không hết, đặc biệt ho ra máu, gây đau ngực, khó thở…
Ung thư phổi có thể di căn và thường di căn theo chính đường hô hấp trong cơ thể. Các tế bào ung thư có thể đi qua đường máu và di căn qua đường bạch huyết đến các hạch bạch huyết… hay gặp nhất là não, xương, gan, hạch ngoại vị , tuyến thượng thận, phổi bên đối diện.
Triệu chứng ung thư phổi giai đoạn cuối:
Với một bệnh nhân ung thư phổi khi đã di căn đến phủ tạng khác thì chuyển sang gian đoạn 4- "muộn".
- Chất lỏng có chứa tế bào ung thư đã hình thành không gian quanh phổi, dẫn đến khó thở.
- Tắc nghẽn hoặc chảy máu từ đường hô hấp lớn: Ung thư phổi phát triển gần đường hô hấp, lây lan của khối u vào đường thở có thể gây ra tắc nghẽn và chảy máu.
- Đau xương: Ung thư phổi thường lây lan đến xương ngực và xương sống. Thuốc giảm đau có thể được sử dụng kiểm soát cơn đau, nhưng đôi khi xạ trị cũng được sử dụng để giảm đau hoặc giúp ngăn ngừa gãy xương.
- Di căn lên não: triệu chứng gây nhức đầu, động kinh.
Điều trị ung thư phổi giai đoạn cuối:
Trong giai đoạn này, bệnh nhân ung thư phổi được điều trị giảm nhẹ để nhằm mục đích kiểm soát và kéo dài cuộc sống của bệnh nhân, nâng cao chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn như bệnh nhân ung thư phổi di căn thường có những đau đớn do những tổn thương di căn gây ra thì người ta phải kiểm soát đau để làm cho bệnh nhân giảm đau hoặc chúng ta phải điều trị cho bệnh nhân để đề phòng những biến chứng có thể xảy đến với bệnh nhân ví dụ như di căn xương sẽ có thể dẫn đến gãy xương.
Vì vậy, người ta vẫn áp dụng những phương pháp điều trị ung thư phổi hiện đại, đặc biệt là hóa chất để điều trị cho bệnh nhân nhưng không phải là chữa khỏi mà là kéo dài, để kiểm soát bệnh và để nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm nhẹ các đau đớn ở giai đoạn cuối.

Cảnh báo sớm bệnh ung thư phổi


Ung thư phổi là bệnh ung thư thường gặp nhất, là sát thủ mạnh tay nhất trên toàn cầu. Tuy nhiên, ung thư phổi lại hoàn toàn có thể phòng tránh được. Ung thư phổi thường có những biểu hiện dễ gây nhầm lẫn với những bệnh khác, do vậy dù có bất cứ những biểu hiện gì nghi ngờ thì hãy tới gặp bác sĩ ngay để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Mặc dù bệnh ung thư phổi giết chết khoảng 1,3 triệu người mỗi năm trên thế giới nhưng đây không phải là bệnh khó phát hiện và phòng ngừa. Những chẩn đoán bệnh sớm có thể giúp bạn tránh nguy cơ tử vong tới 50% và còn có thể phòng tránh các tế bào ung thư lây lan sang các bộ phận khác trong cơ thể.
Dấu hiệu ung thư phổi1. Thở nặng nhọc
Khó thở hoặc thở khò khè có thể không phải là một triệu chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu bạn đột nhiên khó thở sau khi chạy lên cầu thang trong khi trước đây bạn không bị như vậy thì bạn nên nói chuyện với bác sĩ sớm. Bởi những triệu chứng này rất có thể do một khối u ở phổi gây ra, cản trở việc hô hấp của bạn.
2. Ho nhiều
Ho dai dẳng dẫn đến khàn giọng, tình trạng khàn giọng kéo dài vài tuần không khỏi... có thể là do vấn đề ở phổi gây ra, ví dụ như viêm phổi, nhiễm trùng phổi. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng triệu chứng này do cảm lạnh hoặc dị ứng gây ra nên không đi kiểm tra. Kết quả là tình trạng viêm ở phổi tăng nặng hơn, dẫn đến ung thư phổi nếu không được điều trị kịp thời.
3. Giảm cân nhanh chóng không rõ nguyên nhân
Trong bất kì trường hợp nào, sự sụt cân diễn ra nhanh chóng mà không rõ nguyên nhân, không liên quan đến việc bạn đã cắt giảm calo hoặc tập thể dục... thì rất có thể là do bệnh tật gây ra, kể cả bệnh ung thư. Thêm vào đó, nếu bạn cảm thấy ăn không ngon miệng thì càng dễ kết luận nguyên nhân có thể là do một khối u bên trong cơ thể bạn gây ra, không ngoại trừ khối u ở phổi, dẫn đến ung thư phổi sau này. Khối u này sẽ là tăng đột ngột sự trao đổi chất trong cơ thể bạn và gây ra tình trạng trên.
4. Đau ngực
Một triệu chứng điển hình của ung thư phổi là đau ngực, nhất là khi bạn cảm thấy đau sâu trong phổi mỗi khi nhấc một cái gì đó, khi bạn ho hoặc cười. Ngoài ra, dấu hiệu đau dai dẳng trong ngực mà không hết sau một thời gian dài cũng có thể là một biểu hiện của bệnh ung thư phổi mà bạn cần chú ý.
5. Đau tay và các ngón tay
Đau và mỏi ở các ngón tay có thể là hai dấu hiệu cảnh báo sớm của bệnh ung thư phổi mà nhiều người có xu hướng bỏ qua. Trong phần lớn các trường hợp, khi da của lòng bàn tay trở nên dày và có màu trắng với nếp nhăn rõ rệt thì càng có nhiều khả năng bạn bị ung thư phổi. Bạn nên đi khám để xác định tình trạng bệnh của mình.
6. Đờm có lẫn máu
Ho ra đờm có lẫn máu không bao giờ là dấu hiệu tốt, ngay cả khi lượng máu đó rất ít hoặc nhạt màu. Nếu bạn gặp tình trạng này, nên đi khám ngay lập tức vì nó có thể là dấu hiệu cảnh báo sớm bệnh ung thư phổi hoặc một bệnh nghiêm trọng nào đó trong cơ thể bạn.
7. Thay đổi tâm trạng thất thường
Bạn cảm thấy mình có thể dễ dàng thay đổi tâm trạng nhanh chóng, hay giận dữ và khó chịu, tiếp theo là mệt mỏi và thậm chí trầm cảm... thì rất có thể bạn đang có nguy cơ bị ung thư phổi hoặc bệnh ung thư nào đó. Vì bệnh ung thư có thể làm cho bạn bị rối loạn nội tiết, kích thích các dây thần kinh kiểm soát cảm xúc...
8. Thường xuyên bị nhiễm trùng
Ung thư phổi có thể gây ra tình trạng nhiễm trùng ảnh hưởng đến đường hô hấp và dẫn đến các bệnh như viêm phế quản hoặc các bệnh nhiễm trùng mãn tính khác. Nếu bạn bị nhiễm trùng phổi mãn tính, bạn nên dành thời gian đi chụp X-quang phổi để biết mình có nguy cơ bị ung thư phổi hay không.
9. Đau vai
Đau vai có thể xảy ra nếu một khối u phổi phát triển và gây áp lực lên phần trên của phổi và các dây thần kinh ở nách. Áp lực này thường sẽ dẫn đến đau nhức, ngứa ran và cảm giác đau ở vai, bên trong cánh tay và bàn tay.
10. Bất thường ở các mô vú
Dấu hiệu này thường gặp ở nam giới nhiều hơn. Đó là tình trạng vùng ngực to lên bất thường do các tế bào bệnh ung thư kích thích sự tiết nội tiết tố một cách bất thường. Tuy nhiên, chị em cũng không nên bỏ qua điều này, vì rất có thể đó là do các tế bào ung thư phổi hoặc ung thư ở bộ phận khác gây ra.
Tìm hiểu thêm về ung thư phổi.

Bệnh nhân ung thư vú đầu tiên chữa khỏi bệnh nhờ cấy tế bào gốc ở Việt Nam

Chị Đinh Thị Liễu là bệnh nhân ung thư vú đầu tiên ở Việt Nam được chữa khỏi bệnh nhờ phương pháp cấu tế bào gốc tạo máu tự.
Chiều 11/12, bà Đinh Thị Lệ Thanh - Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An đã tặng hoa chúc mừng tập thể cán bộ y, bác sĩ bệnh viện Ung bướu Nghệ An và bệnh nhân Đinh Thị Liễu (SN 1962 tuổi, trú K1, thị trấn Yên Thành, Nghệ An) – bệnh nhân ung thư vú (K vú) đầu tiên ở Việt Nam được ghép tế bào gốc tạo máu tự thân.
Đại tá, PGS.TS.BS Nguyễn Trung Chính, Uỷ viên thường vụ Hội ung thư Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm khoa Ung bướu BVTW QĐ108; hiện là cố vấn cao cấp BVUB Nghệ An cho biết: Chị Liễu nhập viện từ tháng 9/2013 và được chẩn đoán xác định là ung thư vú (K vú phải), thể ống xâm nhập độ II, T1N1M0.
http://benhvienungbuouhungviet.vn/

Theo chị Liễu cho biết: trong thời gian mắc bệnh, người thân vô cùng lo lắng, cuộc sống gia đình hoàn toàn đảo lộn, việc buôn bán ngưng trệ; sức khỏe càng giảm sút trầm trọng. Nhưng giờ đây, niềm hạnh phúc như vỡ òa bởi sau quá trình điều trị, bệnh nhân đã khỏe mạnh hoàn toàn, ăn uống tốt.
“Hiện sức khoẻ tôi rất tốt. Trong người trở lại bình thường. Tôi rất chân thành cảm ơn BV Ung bướu Nghệ An, cảm ơn đội ngũ bác sỹ, cán bộ…”, bệnh nhân Liễu chia sẻ.
Cuối tháng 8/2014, Hội đồng khoa học bệnh viện ung bướu cùng với PGS.TS Nguyễn Trung Chính quyết định ghép tế bào gốc tự thân cho bệnh nhân.
Đầu tháng 9/2014, chị Đinh Thị Liễu đã được điều trị huy động tế bào gốc. Sau đó, được tiến hành gạn tách tế bào gốc kết hợp đếm CD34+ đạt tiêu chuẩn. Theo đó, tiến hành xử lý tế bào gốc và đưa vào bảo quản ở -196 độ; trong thời gian đó tiếp tục theo dõi và nâng đỡ cơ thể cho bệnh nhân.
Ngày 12/11/2014, bệnh nhân Liễu được tiến hành điều trị điều kiện, đồng thời lúc này đưa bệnh nhân vào phòng vô trùng tuyệt đối (cấy khuẩn âm tính - không có vi khuẩn). 
Đến 8h ngày 19/11/2014, quá trình ghép kéo dài 1 giờ diễn ra tốt đẹp. Sau đó, bệnh nhân được theo dõi sức khỏe.
Ngày 11/12/2014, Hội đồng bệnh viện đã kiểm tra lâm sàng và xét nghiệm bệnh nhân Liễu với kết quả hoàn toàn bình thường. Do vậy, Hội chẩn bệnh viện đã quyết định cho bệnh nhân ra viện.
“Hiện bệnh nhân Liễu khoẻ mạnh hoàn toàn, ăn uống tốt… Đây là ca ghép tế bào gốc tự thân cho bệnh nhân K vú đầu tiên tại Việt Nam”, BS Chính cho biết.