Chẩn đoán và điều trị ung thư cổ tử cung

Thứ Hai, 19 tháng 1, 2015

Chẩn đoán và điều trị ung thư cổ tử cung

Phương pháp chẩn đoán ung thư cổ tử cung
Dù xét nghiệm phết tế bào âm đạo – cổ tử cung là một xét nghiệm tầm soát bệnh ung thư cổ tử cung hiệu quả, việc xác nhận chẩn đoán ung thư cổ tử cung hoặc tiền ung thư đòi hỏi phải sinh thiết cổ tử cung. Việc sinh thiết được thực hiện rất đơn giản, nhanh chóng và không đau. Người bác sĩ sẽ sử dụng một dụng cụ đặc biệt, được gọi là “kềm bấm sinh thiết” để cắt một mẩu mô nhỏ từ tổn thương để xét nghiệm ung thư. Sau đó, mẩu bệnh phẩm này sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm Giải phẫu bệnh. Tại đây, các bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ tiến hành khảo sát dưới kính hiển vi để có được bằng chứng khẳng định sự hiện diện của các tế bào ung thư. Từ đó, các bác sĩ lâm sàng mới có được chẩn đoán xác định.
Điều trị và chăm sóc.
Ung thư cổ tử cung được điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật và xạ trị. Hai phương pháp chữa ung thư này có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc đôi khi phải kết hợp cả hai để tăng thêm hiệu quả điều trị. Cách thức điều trị cụ thể tùy thuộc vào giai đoạn bệnh :
Giai đoạn I với bướu nhỏ hơn 4cm: Đây là giai đoạn bướu còn khu trú hoàn toàn tại cổ tử cung. Chỉ cần phẫu thuật hoặc xạ trị đơn thuần, kết quả điều trị tương đương. Việc chọn lựa phẫu thuật hoặc xạ trị tùy thuộc vào một số yếu tố : tuổi, tình trạng sức khoẻ và tình trạng bệnh tật kèm theo của bệnh nhân, v.v...
Giai đoạn I nhưng có bướu lớn hơn 4cm đến giai đoạn IIB: Đây là giai đoạn bệnh đã lan sang các mô cạnh tử cung và 1/3 trên âm đạo. Theo các đồng thuận quốc tế, kết hợp xạ trị – hóa trị đồng thời được xem là chọn lựa tối ưu và là bước điều trị đầu tiên. Sau đó, tùy theo đáp ứng điều trị, các bác sĩ ung bướu sẽ quyết định các bước điều trị tiếp theo.
Từ giai đoạn III đến giai đoạn IV: Ở giai đoạn này, bệnh đã lan rộng sang vùng mô cạnh tử cung, xuống 1/3 dưới âm đạo và/hoặc các cơ quan lân cận trong vùng chậu như bàng quang, trực tràng. Phẫu thuật rất khó khăn và gần như không thể thực hiện an toàn. Nguy cơ tái phát sau phẫu thuật gần như chắc chắn. Hơn nữa, nguy cơ di căn xa vào các tạng khác như phổi, gan, v.v... thường xuyên đe dọa bệnh nhân. Do đó, phải điều trị bằng xạ trị kết hợp hóa trị đồng thời và phải dùng cả 2 phương pháp xạ trị ngoài và xạ trị trong.
Trong trường hợp đã di căn, bệnh ung thư cổ tử cung gần như không thể điều trị khỏi. Các bác sĩ sẽ dùng hóa trị nhằm ngăn chặn tạm thời sự phát triển của căn bệnh.
Sau điều trị, trong một số trường hợp bệnh vẫn có thể tiếp tục tiến triển hoặc tái phái và di căn sau một khoảng thời gian tạm ổn định. Vì thế, bệnh nhân cần tái khám định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ điều trị để có thể sớm phát hiện các bất thường và kịp thời điều trị lại. Bệnh nhân cần ăn uống đầy đủ, cân đối các chất dinh dưỡng, không nên ăn kiêng và tránh để sụt cân. Bệnh nhân nên tập thể dục đều đặn, có thể tập dưỡng sinh và có thể chơi một số môn thể thao phù hợp theo sự tư vấn của bác sĩ.
Cơ hội sống sót
Nếu được điều trị, tỷ lệ sống trên 5 năm của ung thư cổ tử cung 5 năm là 92% cho các giai đoạn sớm nhất, từ 80% đến 90% cho ung thư giai đoạn 1, và 50% đến 65% cho giai đoạn 2. Chỉ có 25% đến 35% phụ nữ ở giai đoạn 3 và ít hơn 15% với ung thư cổ tử cung giai đoạn 4 còn sống sau 5 năm. Do đó, kiểm tra và phát hiện sớm ung thư cổ tử cung là rất quan trọng.
Tìm hiểu thêm về ung thư cổ tử cung tại: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-co-tu-cung.aspx

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét